Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng

Canxi giúp giảm các biến chứng khi mang thai

Tiến sĩ Marshall Lindheimer, đồng tác giả nghiên cứu trên cho biết việc bổ sung 1,5 gram canxi vào chế độ ăn uống hàng ngày “không ngăn ngừa được bệnh này mà chỉ giảm mức độ nguy hiểm của nó”. Tuy nhiên nó lại giúp giảm tỷ lệ tử vong ở cả bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Preeclampsia ảnh hưởng đến khoảng 9% thai phụ trên toàn thế giới, theo tiến sĩ Villar. Nó có thể dẫn đến sinh non và buộc sản phụ phải sinh mổ. Nếu bệnh phát triển sang một dạng nghiêm trọng hơn - chứng kinh giật - người phụ nữ có thể bị ngập máu não hoặc hôn mê. Trong trường hợp tồi tệ nhất, preeclampsia có thể gây tàn tật hoặc tử vong cho bà mẹ hoặc thai nhi.

Trong nghiên cứu của mình, Villar và đồng sự đã chỉ định cho khoảng 8.300 phụ nữ đang được chăm sóc y tế tại 6 nước trên thế giới (gồm Argentina, Ai Cập, Ấn Độ, Peru, Nam Phi và Việt Nam) và chia thành nhóm sử dụng canxi và nhóm dùng giả dược. Trước khi nghiên cứu bắt đầu, tất cả phụ nữ đều nhận dưới 600 milligram canxi trong chế độ ăn, tức bằng một nửa lượng canxi được khuyên sử dụng trong thời gian mang thai.

Kết quả cho thấy nhóm tăng cường tiêu thụ canxi trong thời gian mang thai giảm được các biến chứng do preeclampsia gây ra.

Hiện chưa rõ nguyên nhân gây bệnh preeclampsia và cũng không có cách ngăn ngừa nó. Các nhà khoa học đang tiếp tục tìm hiểu về mối liên quan giữa canxi và căn bệnh này.

Theo khuyến cáo của các chuyên gia, phụ nữ mang thai nên dùng 1.200 milligram canxi mỗi ngày, nếu không nhận đủ canxi từ chế độ ăn thì nên bổ sung.

TƯỜNG VY

Theo HealthDay News, TTO

Các cách phòng ngừa viêm nhiễm, dị ứng ở mắt

Mùa xuân là mùa có độ ẩm cao, nhiệt độ trong ngày dao động mạnh từ 8-10 độ, nồng độ các dị nguyên trong không khí (phấn hoa, bụi, mốc, vi nấm) cao lên gấp bội so với các mùa khác trong năm. Hiển nhiên là những người có cơ địa dị ứng sẽ khổ sở vì những bất lợi do thời tiết vừa nêu trên. Bệnh hen suyễn, bệnh viêm mũi xoang, mắt, dị ứng sẽ có cơ hội để bùng phát. Với chuyên ngành mắt thì các bệnh nhân đến khám vì viêm kết mạc dị ứng các loại, các sang chấn mắt do côn trùng cũng tăng đột biến.

Các viêm nhiễm có tính chất dị ứng
Viêm kết mạc theo mùa: Bệnh hay xảy ra trên bệnh nhân có cơ địa dị ứng - viêm mũi xoang dị ứng chẳng hạn. Mật độ dị nguyên trong không khí cao lên nhiều vào mùa xuân: phấn hoa, cỏ khô, lông và phấn của côn trùng. Hiển nhiên là chúng sẽ khơi mào cho các viêm nhiễm dị ứng tại đường thở và ở mắt. Vì liên quan đến dạng quá mẫn týp I thông qua kháng thể loại IgE nên sau khi tiếp xúc với dị nguyên người bệnh sẽ xuất hiện nhanh chóng các triệu chứng: sưng phù mi - kết mạc, ngứa mắt, đỏ mắt, ra gỉ mắt dạng keo nhày.

Bệnh có tính thời vụ và điều trị không phức tạp lắm. Chườm lạnh tại chỗ làm bệnh nhân dễ chịu rõ rệt. Các thuốc tra nhỏ mắt khá đa dạng và sẵn có trên thị trường: thuốc co mạch tại chỗ làm mắt giảm sưng phù và đỏ mắt nhanh, nước mắt nhân tạo hoặc nước muối sinh lý để rửa trôi dị nguyên và an dịu mắt, các thuốc kháng histamin và ổn định dưỡng bào dạng nhỏ mắt thường có tác dụng rất tốt.

Viêm kết giác mạc mùa xuân: Tên của bệnh nghe có vẻ lãng mạn, thế nhưng những phiền toái mà bệnh gây nên cho cả bệnh nhân và thầy thuốc lại không hề “lãng mạn” chút nào. Bệnh phần lớn xảy ra ở nam thiếu niên, có xu hướng tái phát theo chu kỳ xuân - hè, ảnh hưởng rất lớn đến học tập của các cháu, gây phiền muộn cho các bậc phụ huynh. Thường gặp ở trẻ có tiền sử dị ứng: chàm, hen suyễn...

Triệu chứng cơ bản là ngứa, càng gãi, càng day dụi thì càng thích. Điều này liên quan đến biến chứng có thể có là loét giác mạc do trẻ day dụi quá mạnh. Mắt không đỏ nhiều, ra gỉ mắt dạng keo ở mức độ vừa phải. Ở dạng có tổn thương giác mạc trẻ sẽ có cảm giác nóng rát, sợ sáng và chảy nước mắt liên tục.

Khi thăm khám thấy tổn thương có các dạng:
- Dạng khu trú ở kết mạc: tăng sinh nhú gai chủ yếu ở kết mạc mi trên, có khi phát triển như sỏi cuội gọi là nhú khổng lồ.

- Dạng có tổn thương ở vùng rìa: hay xảy ra ở những người da đen và tiên lượng tốt hơn trên. Bệnh nhân có cương tụ rìa khu trú vùng rìa dày lên trông như dán keo và có nhiều nốt trắng đục.

- Dạng có tổn thương ở lòng đen kèm theo: viêm biểu mô dạng chấm, loét và hoại tử dạng “đảo loét”, sẹo dưới biểu mô...

Các thuốc chống viêm dạng không có steroid, thuốc ổn định dưỡng bào, nước mắt nhân tạo các loại chỉ đem lại dễ chịu cho bệnh nhân phần nào. Những cơn kịch phát chỉ giảm nhanh khi gặp vũ khí mạnh - corticosteroid. Sự nôn nóng của người bệnh thúc ép các bác sĩ phải dùng vũ khí trên hoặc bản thân họ tự mua dùng sẽ kèm theo hệ lụy: biến chứng do dùng cortizol kéo dài mà nghe thấy ai cũng phải sợ: glôcôm, loét và hoại tử giác mạc do bội nhiễm nấm - vi khuẩn - herpes, đục thể thủy tinh...

Với thể viêm này quan điểm điều trị là:
- Chườm lạnh sẽ làm đa phần bệnh nhân dịu được cơn ngứa, tránh day dụi tối đa.

- Nước mắt nhân tạo không bao giờ là thừa, tốt nhất là loại không có chất bảo quản.

- Các thuốc ổn định dưỡng bào và các chế phẩm steroid nên được dùng xen kẽ với nhau. Steroid được khuyên dùng trong cơn kịch phát, liều cao trong 5-7 ngày rồi dừng, sau đó thay thế bằng các thuốc kháng histamin tại chỗ - ổn định dưỡng bào hoặc chống viêm không có steroid.

Viêm kết mạc - giác mạc kiểu atopi: là bệnh hiếm gặp. Các trường hợp điển hình xảy ra trên bệnh nhân bị viêm da dị ứng: viêm da vùng cổ bên, mặt duỗi của tay, các nếp gấp tự nhiên. Thêm nữa bản thân bệnh nhân hoặc thân nhân đã từng bị hoặc đang bị hen, viêm mũi dị ứng.

Các dấu hiệu lâm sàng không mang tính đặc trưng cao: không có hoặc có ít cơn kịch phát, nhú gai trung bình và lan tỏa cả kết mạc mi trên và mi dưới, phù kết mạc mạnh và tân mạch giác mạc. Lâu dài bệnh thường gây ra sẹo kết mạc hoặc dính mi cầu. Sẹo giác mạc gây giảm thị lực rất hay gặp, nhất là nếu bệnh nhân bị viêm nhiễm phối hợp do herpes hoặc cầu khuẩn.

Điều trị bệnh rất khó khăn do tỷ lệ phụ thuộc vào cortizol rất cao. Các thuốc kháng histamin dạng uống có thể dùng nếu bệnh nhân ngứa nhiều.

Dị ứng nói chung và các viêm nhiễm do dị ứng tại mắt nói riêng là một vấn đề sức khỏe toàn cầu. Con người đã tiến những bước dài trong vệ sinh cá nhân. Chính vì vậy mà tỷ lệ bệnh do nhiễm khuẩn, nhiễm ký sinh trùng có vẻ giảm đi. Thế nhưng dị ứng với những căn nguyên đan xen giữa yếu tố thiên bẩm, gia đình, rối loạn miễn dịch, ô nhiễm công nghiệp lại ngày càng phổ biến. Tự bảo vệ mình trước những dị nguyên, uống nhiều nước, uống vitamin C thường xuyên là cách thức phòng hộ cá nhân tốt nhất trước khi y học có những phương pháp điều trị hoàn hảo hơn.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Các món ăn bài thuốc chữa động kinh

Trám xanh 500 g, đập vụn, thêm nước trong, cho vào nồi đất đun sôi 15 phút, lấy trám ra. Bỏ hạt giã nát, cho vào nước luộc lại, đun nửa giờ, nhỏ lửa bỏ bã, lấy nước đặc như cao, thêm vào 24 g bột phèn chua, trộn đều dùng. Ngày uống 2 lần sáng và tối, mỗi lần uống 9 g với nước đường khi no bụng. Dùng cho người động kinh đờm đục, đờm nhiệt.

Trám tươi không kể số lượng, bỏ hạt, chấm bột phèn chua ăn, mỗi ngày 2 lần, đại táo mười quả nấu lấy nước chiêu uống. Dùng cho người động kinh đờm đục, đờm nhiệt.

Trám tươi 20 quả, giã vụn, sắc nước, lửa to đun sôi, sau đó ninh nhỏ lửa 20 phút. Bỏ bã, đập vào một quả trứng gà, đun chín không cho gia vị, ngày 1 lần. Dùng cho người động kinh lâu ngày, cơ thể hư yếu, đờm nhiều.

Não dê 1 bộ, dùng nước sôi trần qua, bỏ màng gân ở bề mặt, thêm 12 g long nhãn nhục, 9 g trần bì, ninh chín nhừ chia lần ăn. Dùng cho người động kinh, tim lách đều hư, đờm đục ngưng ở trong.

Hoài tiểu mạch 150 g, hồng táo 10 quả, thêm nước vừa đủ, nấu cháo dính đặc, thêm chút mạch nha. Ngày chia 2 lần ăn hết. Dùng cho người bệnh tim lách đều hư.

Ba ba 1 con, giết mổ rửa sạch, thêm cẩu kỷ tử 15 g, trần bì 9 g, thêm nước ninh tới chín nhừ, chia bữa ăn. Nửa tháng ăn một lần. Dùng cho người gan thận âm hư.

Gà mái vàng 1 con, giết mổ rửa sạch, bỏ nội tạng, cho 50 g hạt dẻ sống vào trong bụng gà, thêm nước ninh cho tới khi hạt dẻ chín nhừ, chia bữa dùng ăn. Dùng cho người thiểu năng tỳ thận. Không nên ăn những món sống lạnh, hạn chế rượu và đồ biển tươi để tránh tổn thương lách, dạ dày mà lưu ẩm thành đờm.

Ngoài ra, người bị động kinh nên chọn những thức uống mát, thanh nhiệt, có thể làm mát tim, mật, sạch nhiệt, tiêu đờm. Người động kinh cơ thể hư yếu, nên tăng cường dinh dưỡng, bổ sung protein và nhiệt lượng đầy đủ, có thể chọn thịt dê, ba ba trứng.
Chú ý: Một đồng cân ta bằng 4 g; một lạng ta bằng 40 g.

Những bài thuốc từ côn trùng

Trong thế giới động vật, côn trùng chiếm một phần đáng kể. Ngoài những loại đã trở thành những vị thuốc quen thuộc trong y học cổ truyền như bọ cạp, ong mật, xác ve sầu… nhiều loại khác ít được biết đến nhưng lại có tác dụng thiết thực trong việc phòng và chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian.

Ong bò vẽ
Còn có tên khác là ong đất, ong bắp cày, ong khổng lồ, là một loài côn trùng cánh màng ăn thịt, rất dữ. Đầu màu vàng, ngực màu nâu nhạt và bụng màu đen, kích thước to hơn ong mật. Ong sống thành đàn hoặc đơn độc, không làm mật; làm tổ dưới đất hoặc trên lùm cây, mái nhà.

Ấu trùng ong bò vẽ (3-5 g) sắc uống hoặc sao vàng, tán bột, uống chữa ngực bụng đau, nôn khan. Dịch chiết từ ấu trùng ong được pha chế thành dạng nước uống có tên là VAAM (Vespa amino acid mixture) có tác dụng làm tăng và bền sức rất mạnh. Thuốc được dùng cho những vận động viên chạy đường dài (marathon).

Ở một số tỉnh miền núi như Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, người ta tìm tổ ong bò vẽ để lấy nhộng ong và ong non về làm thức ăn bồi dưỡng cho trẻ nhỏ gầy yếu, kém ăn, chậm lớn.

Ngài tằm
Tên thuốc trong y học cổ truyền là tàm nga, có con đực và con cái. Thường chỉ dùng ngài tằm đực bắt vào 5-6 giờ sáng, đem vặt cánh, bỏ đầu và chân, phơi hoặc sấy khô. Có thể dùng tươi. Dược liệu có vị mặn, bùi, béo, thơm, tính ấm.

Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) từng dùng ngài tằm đã chế biến tán thành bột, cho uống bệnh nhân mỗi lần 8 g với rượu vào lúc đói để chữa tiểu buốt do chứng lậu. Hoặc lấy bột ngài tằm trộn với mật ong bôi trong miệng, chữa trẻ em bị chứng “phong chúm miệng”, cứng lưỡi, khóc không ra tiếng.

Theo kinh nghiệm dân gian, ngài tằm đực (7 con, sao giòn) phối hợp với tôm he bóc vỏ (20 g), giã nát, trộn với trứng gà (2 quả) dùng dưới dạng thức ăn như rán và hấp chín để làm thuốc bổ thận, tráng dương, ích tinh, chữa liệt dương, mộng tinh, không có con. Có thể dùng dạng rượu ngâm gồm: ngài tằm đực 100 g, dâm dương hoắc 60 g, ba kích 50 g, kim anh 50 g, thục địa 40 g, sơn thù 30 g, ngưu tất 30 g, khởi tử 20 g, lá hẹ 20 g, đường kính 40 g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu 40 độ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30 ml trước hai bữa ăn chính và khi đi ngủ.

Ngài tằm đực còn được bào chế với nhung hươu, cá ngựa, nhân sâm và nhiều vị thuốc bổ khác dưới dạng cao chiết xuất bằng cồn 70 độ và viên bao, lấy tên là Bipharton (theo chương trình nghiên cứu kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại) có tác dụng tăng trọng, kích thích sinh dục.

Kiến đen
Là côn trùng không cánh, toàn thân dài 1,3-1,5 cm, màu đen bóng. Sống thành đàn lớn ở rừng núi, làm tổ dưới đất; đến mùa mưa lũ, lại kéo nhau lên cây để xây tổ tránh lụt.

Kiến đen chứa 40-67% protein gồm nhiều loại acid amin, trong đó có 8 chất không thay thế được. Tên thuốc trong y học cổ truyền là hắc mã nghị, được dùng sống. Dược liệu có vị mặn, cay, hơi độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, giảm đau. Hằng ngày, lấy kiến đen rửa sạch, xào với mướp đắng ăn; kết hợp lấy kiến ngâm dầu (dầu thầu dầu hoặc dầu lạc) để một thời gian, dùng xoa bóp chữa viêm khớp, tê thấp, viêm gan mạn tính. Dùng ngoài, giã nát kiến đen đắp chữa mụn nhọt, rắn cắn.

Trứng kiến đen thường được đồng bào các dân tộc miền núi ở phía Bắc thu về để thổi xôi ăn hằng ngày làm thuốc bổ, tăng cường thể lực. Phụ nữ cho rằng ăn nhiều trứng kiến đen sẽ có làn da đẹp, mịn màng, tươi tắn.

Dế mèn
Bộ phận dùng làm thuốc là cả con dế mèn, nhúng vào nước sôi cho chết, vặt cánh, râu và đuôi, rồi phơi hoặc sấy khô. Dược liệu có tên thuốc là tất xuất, vị mặn, cay, tính bình, vào 3 kinh bàng quang, đại tràng và tiểu tràng, có tác dụng lợi tiểu.

Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng dế mèn 5 con sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, uống với nước sắc hạt bìm bìm vào lúc đói chữa cổ trướng, thở dốc.

Theo kinh nghiệm dân gian, dế mèn (2-3 con) nướng giòn, tán bột, uống làm 2-3 lần với rượu chữa bí tiểu; kết hợp lấy dế mèn còn sống, giã nát với một củ hành và ít muối, đắp vào rốn, băng lại. Dùng vài ngày đến khi tiểu được.

Chữa nhiễm độc nước tiểu: Dế mèn 7 con bỏ đầu, chân, rang chín, tán nhỏ, uống với rượu. Có thể sắc uống.

Chữa sỏi: Dế mèn 10 con, sao vàng, tán bột mịn; kim tiền thảo 30 g cắt nhỏ, sắc lấy nước. Uống bột dế mèn với nước kim tiền thảo làm hai lần trong ngày.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, VNE

Cách chống lại lão hóa mắt

Các bệnh mắt liên quan đến sự lão hóa bao gồm sa da mi (thực tế đây là bệnh của da), khô mắt, đục vùng rìa giác mạc, lão thị, đục thủy tinh thể, thoái hóa màng trước võng mạc, lỗ hoàng điểm. 
Hai bệnh đục thủy tinh thể và thoái hóa điểm vàng tuổi già là nguyên nhân chính gây ra mù lòa. Gần đây số lượng người cao tuổi tới khám ở Bệnh viện Mắt Trung ương được phát hiện bệnh thoái hóa điểm vàng tuổi già cũng tăng nhiều. Đây là vấn đề đáng báo động.
Bệnh lý của mắt do quá trình lão hóa gây ra sớm nhất là lão thị. Cơ chế của tình trạng này là độ đàn hồi của thủy tinh thể giảm sút do bị xơ cứng. Rất nhiều người đã nhầm lão thị với tật khúc xạ viễn thị do có cách khắc phục bằng cách sử dụng kính đeo mắt là kính cầu hội tụ.

Bệnh lý thường gặp nhất do lão hóa gây ra ở mắt của người cao tuổi là bệnh đục thủy tinh thể. Quá trình đục xảy ra song song với sự xơ cứng thủy tinh thể gây giảm thị lực từ từ và thường không gây đau nhức. Đây là bệnh lành tính nhưng khi thủy tinh thể đã đục nhiều sẽ gây giảm sút thị lực trầm trọng. Hiện nay đục thủy tinh thể có thể giải quyết được bằng phẫu thuật. Thị lực của người bệnh thường sẽ phục hồi tốt sau khi đặt một thủy tinh thể nhân tạo vào trong mắt hoặc được đeo kính ngoài đúng số.

Thoái hóa điểm vàng tuổi già là hiện tượng tổn thương võng mạc trung tâm ở người cao tuổi thường từ trên 50 tuổi. Bệnh này gây giảm thị lực trung tâm trầm trọng. Đấy là nguyên nhân chính gây mù lòa ở người cao tuổi tại các nước công nghiệp phát triển. Đã có nhiều phương pháp điều trị được áp dụng như dùng thuốc, laser, phẫu thuật nhưng nói chung kết quả còn hạn chế.

Có nhiều biện pháp để giảm tốc độ lão hóa mắt. Trước tiên chúng ta nên duy trì chế độ dinh dưỡng cân đối, giàu vitamin, nhất là các vitamin A, B, E, ăn nhiều rau quả có màu vàng, lá xanh đậm để bổ sung các vitamin cần thiết cho mắt luôn hoạt động tốt. Các nguyên tố vi lượng như kẽm, đồng với khả năng chống ôxy hóa cũng có tác dụng rất hữu hiệu trong việc ngăn ngừa thoái hóa mắt.

Nên dùng mũ rộng vành, sử dụng thường xuyên kính mát loại tốt có khả năng ngăn tia cực tím, tránh không để các nguồn sáng mạnh rọi trực tiếp vào mắt khi ra nắng.

Gần đây, khoa học cũng đã chứng minh được rằng chất chondroitin - một thành phần được chiết xuất từ sụn vi cá mập thiên nhiên, không chỉ giúp duy trì độ trong suốt của thủy tinh thể và giác mạc mắt, mà còn tăng tính đàn hồi của thấu kính (tức thủy tinh thể) và thể mi giúp mắt luôn điều tiết tốt, hạn chế tình trạng mỏi mắt, hoa mắt, giúp nuôi dưỡng mắt từ bên trong, cho đôi mắt sáng khỏe dài lâu.

Cũng nhờ sự tiến bộ của ngành dược hiện đại, một số loại thuốc bổ mắt đã đưa được chiết xuất sụn vi cá mập thiên nhiên, các chất vi lượng (đồng, kẽm), các vitamin... vào trong thành phần của thuốc đã giúp làm chậm tiến trình lão hóa, ngăn ngừa các chứng bệnh về mắt do lão hóa gây ra.

Theo Hà Nội mới, TTO