Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng

Các món ăn bài thuốc chữa động kinh

Trám xanh 500 g, đập vụn, thêm nước trong, cho vào nồi đất đun sôi 15 phút, lấy trám ra. Bỏ hạt giã nát, cho vào nước luộc lại, đun nửa giờ, nhỏ lửa bỏ bã, lấy nước đặc như cao, thêm vào 24 g bột phèn chua, trộn đều dùng. Ngày uống 2 lần sáng và tối, mỗi lần uống 9 g với nước đường khi no bụng. Dùng cho người động kinh đờm đục, đờm nhiệt.

Trám tươi không kể số lượng, bỏ hạt, chấm bột phèn chua ăn, mỗi ngày 2 lần, đại táo mười quả nấu lấy nước chiêu uống. Dùng cho người động kinh đờm đục, đờm nhiệt.

Trám tươi 20 quả, giã vụn, sắc nước, lửa to đun sôi, sau đó ninh nhỏ lửa 20 phút. Bỏ bã, đập vào một quả trứng gà, đun chín không cho gia vị, ngày 1 lần. Dùng cho người động kinh lâu ngày, cơ thể hư yếu, đờm nhiều.

Não dê 1 bộ, dùng nước sôi trần qua, bỏ màng gân ở bề mặt, thêm 12 g long nhãn nhục, 9 g trần bì, ninh chín nhừ chia lần ăn. Dùng cho người động kinh, tim lách đều hư, đờm đục ngưng ở trong.

Hoài tiểu mạch 150 g, hồng táo 10 quả, thêm nước vừa đủ, nấu cháo dính đặc, thêm chút mạch nha. Ngày chia 2 lần ăn hết. Dùng cho người bệnh tim lách đều hư.

Ba ba 1 con, giết mổ rửa sạch, thêm cẩu kỷ tử 15 g, trần bì 9 g, thêm nước ninh tới chín nhừ, chia bữa ăn. Nửa tháng ăn một lần. Dùng cho người gan thận âm hư.

Gà mái vàng 1 con, giết mổ rửa sạch, bỏ nội tạng, cho 50 g hạt dẻ sống vào trong bụng gà, thêm nước ninh cho tới khi hạt dẻ chín nhừ, chia bữa dùng ăn. Dùng cho người thiểu năng tỳ thận. Không nên ăn những món sống lạnh, hạn chế rượu và đồ biển tươi để tránh tổn thương lách, dạ dày mà lưu ẩm thành đờm.

Ngoài ra, người bị động kinh nên chọn những thức uống mát, thanh nhiệt, có thể làm mát tim, mật, sạch nhiệt, tiêu đờm. Người động kinh cơ thể hư yếu, nên tăng cường dinh dưỡng, bổ sung protein và nhiệt lượng đầy đủ, có thể chọn thịt dê, ba ba trứng.
Chú ý: Một đồng cân ta bằng 4 g; một lạng ta bằng 40 g.

Những bài thuốc từ côn trùng

Trong thế giới động vật, côn trùng chiếm một phần đáng kể. Ngoài những loại đã trở thành những vị thuốc quen thuộc trong y học cổ truyền như bọ cạp, ong mật, xác ve sầu… nhiều loại khác ít được biết đến nhưng lại có tác dụng thiết thực trong việc phòng và chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian.

Ong bò vẽ
Còn có tên khác là ong đất, ong bắp cày, ong khổng lồ, là một loài côn trùng cánh màng ăn thịt, rất dữ. Đầu màu vàng, ngực màu nâu nhạt và bụng màu đen, kích thước to hơn ong mật. Ong sống thành đàn hoặc đơn độc, không làm mật; làm tổ dưới đất hoặc trên lùm cây, mái nhà.

Ấu trùng ong bò vẽ (3-5 g) sắc uống hoặc sao vàng, tán bột, uống chữa ngực bụng đau, nôn khan. Dịch chiết từ ấu trùng ong được pha chế thành dạng nước uống có tên là VAAM (Vespa amino acid mixture) có tác dụng làm tăng và bền sức rất mạnh. Thuốc được dùng cho những vận động viên chạy đường dài (marathon).

Ở một số tỉnh miền núi như Cao Bằng, Lạng Sơn, Yên Bái, người ta tìm tổ ong bò vẽ để lấy nhộng ong và ong non về làm thức ăn bồi dưỡng cho trẻ nhỏ gầy yếu, kém ăn, chậm lớn.

Ngài tằm
Tên thuốc trong y học cổ truyền là tàm nga, có con đực và con cái. Thường chỉ dùng ngài tằm đực bắt vào 5-6 giờ sáng, đem vặt cánh, bỏ đầu và chân, phơi hoặc sấy khô. Có thể dùng tươi. Dược liệu có vị mặn, bùi, béo, thơm, tính ấm.

Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) từng dùng ngài tằm đã chế biến tán thành bột, cho uống bệnh nhân mỗi lần 8 g với rượu vào lúc đói để chữa tiểu buốt do chứng lậu. Hoặc lấy bột ngài tằm trộn với mật ong bôi trong miệng, chữa trẻ em bị chứng “phong chúm miệng”, cứng lưỡi, khóc không ra tiếng.

Theo kinh nghiệm dân gian, ngài tằm đực (7 con, sao giòn) phối hợp với tôm he bóc vỏ (20 g), giã nát, trộn với trứng gà (2 quả) dùng dưới dạng thức ăn như rán và hấp chín để làm thuốc bổ thận, tráng dương, ích tinh, chữa liệt dương, mộng tinh, không có con. Có thể dùng dạng rượu ngâm gồm: ngài tằm đực 100 g, dâm dương hoắc 60 g, ba kích 50 g, kim anh 50 g, thục địa 40 g, sơn thù 30 g, ngưu tất 30 g, khởi tử 20 g, lá hẹ 20 g, đường kính 40 g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, ngâm với 2 lít rượu 40 độ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 30 ml trước hai bữa ăn chính và khi đi ngủ.

Ngài tằm đực còn được bào chế với nhung hươu, cá ngựa, nhân sâm và nhiều vị thuốc bổ khác dưới dạng cao chiết xuất bằng cồn 70 độ và viên bao, lấy tên là Bipharton (theo chương trình nghiên cứu kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại) có tác dụng tăng trọng, kích thích sinh dục.

Kiến đen
Là côn trùng không cánh, toàn thân dài 1,3-1,5 cm, màu đen bóng. Sống thành đàn lớn ở rừng núi, làm tổ dưới đất; đến mùa mưa lũ, lại kéo nhau lên cây để xây tổ tránh lụt.

Kiến đen chứa 40-67% protein gồm nhiều loại acid amin, trong đó có 8 chất không thay thế được. Tên thuốc trong y học cổ truyền là hắc mã nghị, được dùng sống. Dược liệu có vị mặn, cay, hơi độc, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, giảm đau. Hằng ngày, lấy kiến đen rửa sạch, xào với mướp đắng ăn; kết hợp lấy kiến ngâm dầu (dầu thầu dầu hoặc dầu lạc) để một thời gian, dùng xoa bóp chữa viêm khớp, tê thấp, viêm gan mạn tính. Dùng ngoài, giã nát kiến đen đắp chữa mụn nhọt, rắn cắn.

Trứng kiến đen thường được đồng bào các dân tộc miền núi ở phía Bắc thu về để thổi xôi ăn hằng ngày làm thuốc bổ, tăng cường thể lực. Phụ nữ cho rằng ăn nhiều trứng kiến đen sẽ có làn da đẹp, mịn màng, tươi tắn.

Dế mèn
Bộ phận dùng làm thuốc là cả con dế mèn, nhúng vào nước sôi cho chết, vặt cánh, râu và đuôi, rồi phơi hoặc sấy khô. Dược liệu có tên thuốc là tất xuất, vị mặn, cay, tính bình, vào 3 kinh bàng quang, đại tràng và tiểu tràng, có tác dụng lợi tiểu.

Tuệ Tĩnh (Nam dược thần hiệu) đã dùng dế mèn 5 con sấy khô, tán nhỏ, rây bột mịn, uống với nước sắc hạt bìm bìm vào lúc đói chữa cổ trướng, thở dốc.

Theo kinh nghiệm dân gian, dế mèn (2-3 con) nướng giòn, tán bột, uống làm 2-3 lần với rượu chữa bí tiểu; kết hợp lấy dế mèn còn sống, giã nát với một củ hành và ít muối, đắp vào rốn, băng lại. Dùng vài ngày đến khi tiểu được.

Chữa nhiễm độc nước tiểu: Dế mèn 7 con bỏ đầu, chân, rang chín, tán nhỏ, uống với rượu. Có thể sắc uống.

Chữa sỏi: Dế mèn 10 con, sao vàng, tán bột mịn; kim tiền thảo 30 g cắt nhỏ, sắc lấy nước. Uống bột dế mèn với nước kim tiền thảo làm hai lần trong ngày.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, VNE

Cách chống lại lão hóa mắt

Các bệnh mắt liên quan đến sự lão hóa bao gồm sa da mi (thực tế đây là bệnh của da), khô mắt, đục vùng rìa giác mạc, lão thị, đục thủy tinh thể, thoái hóa màng trước võng mạc, lỗ hoàng điểm. 
Hai bệnh đục thủy tinh thể và thoái hóa điểm vàng tuổi già là nguyên nhân chính gây ra mù lòa. Gần đây số lượng người cao tuổi tới khám ở Bệnh viện Mắt Trung ương được phát hiện bệnh thoái hóa điểm vàng tuổi già cũng tăng nhiều. Đây là vấn đề đáng báo động.
Bệnh lý của mắt do quá trình lão hóa gây ra sớm nhất là lão thị. Cơ chế của tình trạng này là độ đàn hồi của thủy tinh thể giảm sút do bị xơ cứng. Rất nhiều người đã nhầm lão thị với tật khúc xạ viễn thị do có cách khắc phục bằng cách sử dụng kính đeo mắt là kính cầu hội tụ.

Bệnh lý thường gặp nhất do lão hóa gây ra ở mắt của người cao tuổi là bệnh đục thủy tinh thể. Quá trình đục xảy ra song song với sự xơ cứng thủy tinh thể gây giảm thị lực từ từ và thường không gây đau nhức. Đây là bệnh lành tính nhưng khi thủy tinh thể đã đục nhiều sẽ gây giảm sút thị lực trầm trọng. Hiện nay đục thủy tinh thể có thể giải quyết được bằng phẫu thuật. Thị lực của người bệnh thường sẽ phục hồi tốt sau khi đặt một thủy tinh thể nhân tạo vào trong mắt hoặc được đeo kính ngoài đúng số.

Thoái hóa điểm vàng tuổi già là hiện tượng tổn thương võng mạc trung tâm ở người cao tuổi thường từ trên 50 tuổi. Bệnh này gây giảm thị lực trung tâm trầm trọng. Đấy là nguyên nhân chính gây mù lòa ở người cao tuổi tại các nước công nghiệp phát triển. Đã có nhiều phương pháp điều trị được áp dụng như dùng thuốc, laser, phẫu thuật nhưng nói chung kết quả còn hạn chế.

Có nhiều biện pháp để giảm tốc độ lão hóa mắt. Trước tiên chúng ta nên duy trì chế độ dinh dưỡng cân đối, giàu vitamin, nhất là các vitamin A, B, E, ăn nhiều rau quả có màu vàng, lá xanh đậm để bổ sung các vitamin cần thiết cho mắt luôn hoạt động tốt. Các nguyên tố vi lượng như kẽm, đồng với khả năng chống ôxy hóa cũng có tác dụng rất hữu hiệu trong việc ngăn ngừa thoái hóa mắt.

Nên dùng mũ rộng vành, sử dụng thường xuyên kính mát loại tốt có khả năng ngăn tia cực tím, tránh không để các nguồn sáng mạnh rọi trực tiếp vào mắt khi ra nắng.

Gần đây, khoa học cũng đã chứng minh được rằng chất chondroitin - một thành phần được chiết xuất từ sụn vi cá mập thiên nhiên, không chỉ giúp duy trì độ trong suốt của thủy tinh thể và giác mạc mắt, mà còn tăng tính đàn hồi của thấu kính (tức thủy tinh thể) và thể mi giúp mắt luôn điều tiết tốt, hạn chế tình trạng mỏi mắt, hoa mắt, giúp nuôi dưỡng mắt từ bên trong, cho đôi mắt sáng khỏe dài lâu.

Cũng nhờ sự tiến bộ của ngành dược hiện đại, một số loại thuốc bổ mắt đã đưa được chiết xuất sụn vi cá mập thiên nhiên, các chất vi lượng (đồng, kẽm), các vitamin... vào trong thành phần của thuốc đã giúp làm chậm tiến trình lão hóa, ngăn ngừa các chứng bệnh về mắt do lão hóa gây ra.

Theo Hà Nội mới, TTO

Bệnh tay chân miệng có thể giết chết trẻ

Nguy hiểm hơn là ngay cả khi bệnh đã có biến chứng gây tử vong nhưng thầy thuốc và người nhà cũng không hề biết được là do bệnh tay chân miệng diễn biến nặng cần can thiệp kịp thời.

Chẩn đoán nhầm, biến chứng nặng
Bệnh tay chân miệng không phải là bệnh mới xuất hiện, trong tài liệu y khoa đã nói đến từ lâu. Tuy nhiên, đa số bác sĩ và người dân đều không biết bệnh này vì trước đây bệnh chủ yếu là do tác nhân coxsakie - rất lành tính - gây ra.

Gần đây trên thế giới đã phát hiện thêm một tác nhân mới rất nguy hiểm cũng gây ra bệnh này là enterovirus 71. Tác nhân này nguy hiểm vì nó có thể gây biến chứng ở não và tim, gây tử vong cao và rất nhanh. Do không biết bệnh này nên đôi khi bệnh được chính thầy thuốc chẩn đoán nhầm là bệnh thủy đậu, nhiễm trùng da hay dị ứng...

Bệnh này thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi và rất dễ lây. Thường lây lan nhanh qua đường tiêu hóa và trẻ sống cùng nhà và sinh hoạt cùng nhà trẻ.Theo tổng kết nhiều năm của Bệnh viện Nhi Đồng 1,TP.HCM, bệnh xảy ra theo hai mùa trong năm, từ tháng 2-4 và sau đó từ tháng 9-12.

Biểu hiện của bệnh cũng rất dễ nhận biết nếu được chú ý, đó chính là các bóng nước. Bóng nước có kích thước từ 2-10mm, màu xám, hình ô van, thường xuất hiện ở vùng mông, gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân và thường ấn không đau. Bóng nước còn xuất hiện trong miệng và khi vỡ ra gây những vết loét trong miệng.

Năm ngoái, Bệnh viện Nhi Đồng 1,TP.HCM tiếp nhận 1.000 bệnh nhi bị “bệnh tay chân miệng”, trong đó có 400 ca có biến chứng cần nhập viện. Trong hai tháng đầu năm nay đã có thêm 187 ca nhập viện vì biến chứng của bệnh này.

Khi nổi bóng nước trẻ có thể sốt nhẹ, quấy khóc do đau miệng, bỏ ăn. Bóng nước sẽ tự xẹp đi và có thể tự khỏi sau 5-7 ngày. Một số trẻ có kèm nôn ói, tiêu chảy ngay khi nổi bóng nước hay khi bóng nước đã xẹp.

Đa số trường hợp bệnh sẽ tự khỏi nhưng nếu bệnh do tác nhân enterovirus 71 gây ra, một số trẻ sẽ có biến chứng rất nguy hiểm là viêm não, viêm cơ tim, viêm màng não. Điều nguy hiểm hơn là các biến chứng này rất khó phát hiện sớm nếu thầy thuốc không có kinh nghiệm và người nhà không chú ý.

Trẻ có biến chứng não thường không hôn mê sâu mà có những triệu chứng khó nhận thấy như: khó ngủ, quấy khóc liên tục, giật mình lúc thức hay lúc bắt đầu thiu thiu ngủ, trẻ có thể biểu hiện hoảng hốt, nói lảm nhảm, chới với, run chi, co giật.

Triệu chứng khác có thể thấy khi có biến chứng như sốt rất cao, nôn ói nhiều, da nổi bông, mạch nhanh nhưng không sốt cao, yếu tay chân, méo miệng. Khi trẻ có biến chứng nếu không điều trị đúng và kịp thời trẻ có thể tử vong trong vài giờ.

Phát hiện sớm, theo dõi sát
Để phát hiện sớm biến chứng, điều quan trọng là khi thấy trẻ có bệnh tay chân miệng (triệu chứng bóng nước ở tay, chân, miệng) thì người thân cố gắng theo dõi sát trẻ ít nhất tám ngày để phát hiện ngay các dấu hiệu nghi ngờ biến chứng và mang trẻ đến bệnh viện.

Mặt khác nếu thấy có những triệu chứng bất thường kể trên thì tìm xem trẻ có những bóng nước ở lòng tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông hay không. Nếu có thì nhanh chóng mang trẻ đến bệnh viện. Đối với trường hợp không có biến chứng có thể điều trị tại nhà bằng thuốc giảm đau, cho trẻ ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu, cố gắng cho trẻ ăn thành nhiều bữa.

Hiện nay tác nhân enterovirus 71 chưa có thuốc chủng ngừa nên cách phòng ngừa tốt nhất là bảo đảm vệ sinh trong ăn uống. Nên cho trẻ nghỉ học hay tránh tiếp xúc với trẻ bệnh khi ở chung nhà vì bệnh rất dễ lây từ trẻ này sang trẻ khác khi tiếp xúc.

BS TRƯƠNG HỮU KHANH (trưởng khoa nhiễm BV Nhi Đồng 1)



Theo Tuổi trẻ Online

Chuyên gia: Siêu âm thai chỉ 3 lần là đủ

Nhưng theo nhận định của giới chuyên khoa, chỉ cần ba lần là đủ để biết bé có vấn đề hay không, đó là vào các tuần lễ thứ 12, 22 và 32.

Đôi khi bạn sốt ruột chờ đến cuộc hẹn để nhìn mặt con. Siêu âm chính là khoảnh khoắc mê ly, đầy ngạc nhiên thú vị, cách thức giúp người sắp làm cha mẹ hoà nhập với bào thai. Nguyên tắc của siêu âm là thiết bị đặt trên da phát ra những làn sóng siêu âm xuyên qua mô, đi sâu vào trong để đọc tín hiệu. Sau một lần nhận, dấu hiệu được phân tích bởi một hệ thống tin học, chuyển tải ra ảnh xuất hiện trên màn hình.
Thời điểm cần siêu âm lần đầu là tuần thứ 12 (hay đã mang thai được 2 tháng rưỡi). Mục đích là xác minh phôi thai có tốt không, có một hay hai thai trong cùng một cái nhau; ghi ngày tháng để tính trước ngày sinh. Lần siêu âm này cũng xác minh tình trạng sức khoẻ của phôi thai (đo tim thai), tử cung nở, giãn ra như thế nào (để tính đến chuyện sinh khó).

Lần thứ 2 là khi mang thai 4 tháng rưỡi hay tuần thứ 22. Bác sĩ sẽ kiểm tra sự phát triển của đứa bé, đo các chi thể, chiều dài từ đầu đến xương cụt, đường kính của sọ não, bụng, xác định sự hiện diện của các cơ quan.

Lần siêu âm thứ 3 (tuần lễ thứ 32 hay 7 tháng rưỡi) nhằm phát hiện thêm một số khác thường về hình thái, hình dạng cấu tạo thai nhi do siêu âm lần trước không thấy. Từ lần thứ 2 và thứ 3, bác sĩ khảo sát sự lưu thông máu trong dây rốn, các động mạch trong tử cung, nhất là đối với các bà mẹ có dấu hiệu bệnh lý về huyết quản (tiểu đường, suy thận, huyết áp); kiểm tra vị trí, tư thế của bào thai; xem khối lượng nước ối...

Siêu âm nhiều lần vẫn dễ có rủi ro vì bức xạ luôn ảnh hưởng đến các lớp mô. Có những vùng rất nhạy cảm với sóng siêu âm, bác sĩ gọi đấy là những vùng mềm như mắt, tuyến sinh dục. Đây lại là vùng hay bị "soi" nhất khi bác sĩ cứ gia tăng sóng lên mặt và cơ quan sinh dục không vì mục đích y khoa mà chỉ để lôi ra hình ảnh của bào thai. Các chuyên gia cho rằng, siêu âm là kỹ thuật y khoa, chỉ thực hiện khi cần chẩn đoán, không nên coi nó là chuyện chụp ảnh để xem chơi

Siêu âm 3 chiều sẽ tốt hơn?
Đo chiều dài, đường kính, những đường cắt của bào thai để so sánh với những kích thước bình thường... tất cả được thực hiện qua siêu âm 2 chiều, gọi là 2D, trắng và đen. Đối với một số cha mẹ, hình ảnh như thế rất khó xem. Từ những thập niên 90, siêu âm 3D tạo lại hình ảnh có chất lượng hơn, bào thai xuất hiện bất ngờ như một đứa bé đích thực, lớn hay nhỏ tùy theo thời gian đã mang thai. Từ khi xuất hiện siêu âm 3D, người ta rất có cảm tình với kỹ thuật này.

Theo chuyên gia siêu âm, siêu âm 3D không dùng để phát hiện. Kích thước nào, thực hiện những đường cắt nào... đều là việc của siêu âm 2D. Không nên tin rằng 3D tốt hơn 2D. Siêu âm 3D chỉ dành cho những trắc nghiệm bổ sung khi có tình trạng bệnh.

Theo Sài Gòn tiếp thị, TTO