Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng

Bệnh tay chân miệng có thể giết chết trẻ

Nguy hiểm hơn là ngay cả khi bệnh đã có biến chứng gây tử vong nhưng thầy thuốc và người nhà cũng không hề biết được là do bệnh tay chân miệng diễn biến nặng cần can thiệp kịp thời.

Chẩn đoán nhầm, biến chứng nặng
Bệnh tay chân miệng không phải là bệnh mới xuất hiện, trong tài liệu y khoa đã nói đến từ lâu. Tuy nhiên, đa số bác sĩ và người dân đều không biết bệnh này vì trước đây bệnh chủ yếu là do tác nhân coxsakie - rất lành tính - gây ra.

Gần đây trên thế giới đã phát hiện thêm một tác nhân mới rất nguy hiểm cũng gây ra bệnh này là enterovirus 71. Tác nhân này nguy hiểm vì nó có thể gây biến chứng ở não và tim, gây tử vong cao và rất nhanh. Do không biết bệnh này nên đôi khi bệnh được chính thầy thuốc chẩn đoán nhầm là bệnh thủy đậu, nhiễm trùng da hay dị ứng...

Bệnh này thường gặp ở trẻ nhỏ dưới 5 tuổi và rất dễ lây. Thường lây lan nhanh qua đường tiêu hóa và trẻ sống cùng nhà và sinh hoạt cùng nhà trẻ.Theo tổng kết nhiều năm của Bệnh viện Nhi Đồng 1,TP.HCM, bệnh xảy ra theo hai mùa trong năm, từ tháng 2-4 và sau đó từ tháng 9-12.

Biểu hiện của bệnh cũng rất dễ nhận biết nếu được chú ý, đó chính là các bóng nước. Bóng nước có kích thước từ 2-10mm, màu xám, hình ô van, thường xuất hiện ở vùng mông, gối, lòng bàn tay, lòng bàn chân và thường ấn không đau. Bóng nước còn xuất hiện trong miệng và khi vỡ ra gây những vết loét trong miệng.

Năm ngoái, Bệnh viện Nhi Đồng 1,TP.HCM tiếp nhận 1.000 bệnh nhi bị “bệnh tay chân miệng”, trong đó có 400 ca có biến chứng cần nhập viện. Trong hai tháng đầu năm nay đã có thêm 187 ca nhập viện vì biến chứng của bệnh này.

Khi nổi bóng nước trẻ có thể sốt nhẹ, quấy khóc do đau miệng, bỏ ăn. Bóng nước sẽ tự xẹp đi và có thể tự khỏi sau 5-7 ngày. Một số trẻ có kèm nôn ói, tiêu chảy ngay khi nổi bóng nước hay khi bóng nước đã xẹp.

Đa số trường hợp bệnh sẽ tự khỏi nhưng nếu bệnh do tác nhân enterovirus 71 gây ra, một số trẻ sẽ có biến chứng rất nguy hiểm là viêm não, viêm cơ tim, viêm màng não. Điều nguy hiểm hơn là các biến chứng này rất khó phát hiện sớm nếu thầy thuốc không có kinh nghiệm và người nhà không chú ý.

Trẻ có biến chứng não thường không hôn mê sâu mà có những triệu chứng khó nhận thấy như: khó ngủ, quấy khóc liên tục, giật mình lúc thức hay lúc bắt đầu thiu thiu ngủ, trẻ có thể biểu hiện hoảng hốt, nói lảm nhảm, chới với, run chi, co giật.

Triệu chứng khác có thể thấy khi có biến chứng như sốt rất cao, nôn ói nhiều, da nổi bông, mạch nhanh nhưng không sốt cao, yếu tay chân, méo miệng. Khi trẻ có biến chứng nếu không điều trị đúng và kịp thời trẻ có thể tử vong trong vài giờ.

Phát hiện sớm, theo dõi sát
Để phát hiện sớm biến chứng, điều quan trọng là khi thấy trẻ có bệnh tay chân miệng (triệu chứng bóng nước ở tay, chân, miệng) thì người thân cố gắng theo dõi sát trẻ ít nhất tám ngày để phát hiện ngay các dấu hiệu nghi ngờ biến chứng và mang trẻ đến bệnh viện.

Mặt khác nếu thấy có những triệu chứng bất thường kể trên thì tìm xem trẻ có những bóng nước ở lòng tay, lòng bàn chân, đầu gối, mông hay không. Nếu có thì nhanh chóng mang trẻ đến bệnh viện. Đối với trường hợp không có biến chứng có thể điều trị tại nhà bằng thuốc giảm đau, cho trẻ ăn thức ăn lỏng, dễ tiêu, cố gắng cho trẻ ăn thành nhiều bữa.

Hiện nay tác nhân enterovirus 71 chưa có thuốc chủng ngừa nên cách phòng ngừa tốt nhất là bảo đảm vệ sinh trong ăn uống. Nên cho trẻ nghỉ học hay tránh tiếp xúc với trẻ bệnh khi ở chung nhà vì bệnh rất dễ lây từ trẻ này sang trẻ khác khi tiếp xúc.

BS TRƯƠNG HỮU KHANH (trưởng khoa nhiễm BV Nhi Đồng 1)



Theo Tuổi trẻ Online

Chuyên gia: Siêu âm thai chỉ 3 lần là đủ

Nhưng theo nhận định của giới chuyên khoa, chỉ cần ba lần là đủ để biết bé có vấn đề hay không, đó là vào các tuần lễ thứ 12, 22 và 32.

Đôi khi bạn sốt ruột chờ đến cuộc hẹn để nhìn mặt con. Siêu âm chính là khoảnh khoắc mê ly, đầy ngạc nhiên thú vị, cách thức giúp người sắp làm cha mẹ hoà nhập với bào thai. Nguyên tắc của siêu âm là thiết bị đặt trên da phát ra những làn sóng siêu âm xuyên qua mô, đi sâu vào trong để đọc tín hiệu. Sau một lần nhận, dấu hiệu được phân tích bởi một hệ thống tin học, chuyển tải ra ảnh xuất hiện trên màn hình.
Thời điểm cần siêu âm lần đầu là tuần thứ 12 (hay đã mang thai được 2 tháng rưỡi). Mục đích là xác minh phôi thai có tốt không, có một hay hai thai trong cùng một cái nhau; ghi ngày tháng để tính trước ngày sinh. Lần siêu âm này cũng xác minh tình trạng sức khoẻ của phôi thai (đo tim thai), tử cung nở, giãn ra như thế nào (để tính đến chuyện sinh khó).

Lần thứ 2 là khi mang thai 4 tháng rưỡi hay tuần thứ 22. Bác sĩ sẽ kiểm tra sự phát triển của đứa bé, đo các chi thể, chiều dài từ đầu đến xương cụt, đường kính của sọ não, bụng, xác định sự hiện diện của các cơ quan.

Lần siêu âm thứ 3 (tuần lễ thứ 32 hay 7 tháng rưỡi) nhằm phát hiện thêm một số khác thường về hình thái, hình dạng cấu tạo thai nhi do siêu âm lần trước không thấy. Từ lần thứ 2 và thứ 3, bác sĩ khảo sát sự lưu thông máu trong dây rốn, các động mạch trong tử cung, nhất là đối với các bà mẹ có dấu hiệu bệnh lý về huyết quản (tiểu đường, suy thận, huyết áp); kiểm tra vị trí, tư thế của bào thai; xem khối lượng nước ối...

Siêu âm nhiều lần vẫn dễ có rủi ro vì bức xạ luôn ảnh hưởng đến các lớp mô. Có những vùng rất nhạy cảm với sóng siêu âm, bác sĩ gọi đấy là những vùng mềm như mắt, tuyến sinh dục. Đây lại là vùng hay bị "soi" nhất khi bác sĩ cứ gia tăng sóng lên mặt và cơ quan sinh dục không vì mục đích y khoa mà chỉ để lôi ra hình ảnh của bào thai. Các chuyên gia cho rằng, siêu âm là kỹ thuật y khoa, chỉ thực hiện khi cần chẩn đoán, không nên coi nó là chuyện chụp ảnh để xem chơi

Siêu âm 3 chiều sẽ tốt hơn?
Đo chiều dài, đường kính, những đường cắt của bào thai để so sánh với những kích thước bình thường... tất cả được thực hiện qua siêu âm 2 chiều, gọi là 2D, trắng và đen. Đối với một số cha mẹ, hình ảnh như thế rất khó xem. Từ những thập niên 90, siêu âm 3D tạo lại hình ảnh có chất lượng hơn, bào thai xuất hiện bất ngờ như một đứa bé đích thực, lớn hay nhỏ tùy theo thời gian đã mang thai. Từ khi xuất hiện siêu âm 3D, người ta rất có cảm tình với kỹ thuật này.

Theo chuyên gia siêu âm, siêu âm 3D không dùng để phát hiện. Kích thước nào, thực hiện những đường cắt nào... đều là việc của siêu âm 2D. Không nên tin rằng 3D tốt hơn 2D. Siêu âm 3D chỉ dành cho những trắc nghiệm bổ sung khi có tình trạng bệnh.

Theo Sài Gòn tiếp thị, TTO

Ăn nhiều khoai tây làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2

Nghiên cứu tiến hành trên gần 85.000 phụ nữ được đăng trên tạp chí Dinh dưỡng lâm sàng (Mỹ) số ra tháng 2-2006.

Khoai tây vốn được cho là có lợi cho sức khỏe, tuy nhiên chúng cũng chứa nhiều glycemic index (GI) - nguyên nhân làm tăng nhanh hơn và nhiều hơn lượng đường trong máu. Theo thời gian, sự gia tăng này có thể phá hủy các tế bào tuyến tụy giúp sản sinh hormone insulin cần thiết cho chuyển hóa đường trong máu.

Những người lớn tuổi quá cân hay ít vận động có thể đặc biệt bị ảnh hưởng của những thực phẩm cao GI do họ thường có hiện tượng kháng chất insulin cơ bản, một dấu hiện nhận biết của bệnh tiểu đường.

Thomas L. Halton, trưởng nhóm nghiên cứu cho biết ông và cộng sự đã phát hiện những phụ nữ ăn nhiều khoai tây nhất có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường type 2 cao hơn 14% so với những người ăn món này ít nhất trong vòng 20 năm. Đặc biệt những phụ nữ ăn nhiều cá hồi kiểu Pháp nhất - món thường được ăn chung với khoai tây rán - có nguy cơ mắc bệnh cao hơn đến 21% so với những người ăn món này ít nhất.

Gạo nguyên chất (gạo chưa xát) cũng như rau cải giàu chất xơ, trái cây, các sản phẩm bột mì trắng và rau đậu có ít GI hơn khoai tây, vì vậy ăn những món này thay cho khoai tây có thể giúp giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.

T.VY (Theo Reuters)

Theo Tuổi trẻ Online

Câu hỏi thường gặp về bệnh loét dạ dày

Đa số trường hợp loét dạ dày là do vi khuẩn Helicobacter pylori (HP) gây ra. Vi khuẩn này hiện diện trong 90% bệnh nhân bị loét tá tràng và trong 70% loét dạ dày. Khám phá này đã mang lại giải Nobel cho hai nhà bác học Australia Marshall và Warren.

Thế nào là loét dạ dày?
Dạ dày sử dụng dịch vị để phân mảnh thức ăn. Để bảo vệ thành dạ dày khỏi bị sự tấn công của acid clorhydric trong dịch vị, một màng nhày dày bao phủ bên trong dạ dày. Nhưng khi sự tái sinh các tế bào của màng nhày bị rối loạn, kích thích của dịch vị tạo ra những vết loét đường kính vài milimet. Loét tá tràng diễn ra ở ruột tá, điểm tiếp nối giữa dạ dày và ruột non, chiếm 90%. Loét nằm ở dạ dày có thể dẫn đến các biến chứng trầm trọng.

Nguyên nhân gây loét?

Từ lâu, người ta cho rằng nguồn gốc loét dạ dày là các yếu tố tâm thể. Nhưng ngày nay, người ta biết rằng 99% là do vi khuẩn HP. Sự khám phá này đã tạo nên một cuộc cách mạng trong diều trị loét dạ dày-tá tràng bằng cách tiêu diệt vi khuẩn này.

Tuy nhiên, loét còn có thể do tác động của aspirine dùng thường xuyên hoặc các nhóm thuốc kháng viêm giảm đau không streoid khác. Đây là nhóm thuốc gây độc cho dạ dày và làm giảm cơ chế bảo vệ tự nhiên của màng nhày. Việc dùng các thuốc nhóm này để điều trị đau sẽ góp phần làm tăng tình trạng loét.

Các triệu chứng loét biểu hiện như thế nào?

Loét kéo theo những cơn đau như chuột rút, nóng bỏng, quặn thắt ở dạ dày. Cơn đau xuất hiện khoảng 4 giờ sau bữa ăn và có thể kéo dài tới bữa ăn kế tiếp. Bên cạnh đó còn có thể có các triệu chứng phối hợp như: buồn nôn, nôn, rối loạn tiêu hóa. Việc cung cấp thức ăn vào dạ dày thường giúp giảm đau. Các triệu chứng kéo dài vài ngày rồi trở nên đau theo định kỳ.

Khi nào đi bác sĩ?

Nếu cơn đau không thể giảm khi dùng các thuốc giảm đau bao tử không cần kê toa, nếu tái xuất hiện nhiều lần trong ngày đêm thì nên đi khám để được điều trị sớm và hiệu quả.

Đâu là những yếu tố làm nặng chứng loét dạ dày?

Có nhiều yếu tố làm tăng nặng vết loét dù không phải là nguyên gây ra loét, đó là nghiện thuốc lá, nghiện rượu, dùng nhiều cà phê, bị stress thường xuyên, dùng các thuốc giảm đau không steroid và các thuốc corticoid.

Cần từ bỏ các yếu tố trên một khi đã chẩn đoán bị loét. Cần theo một chế độ ăn uống cân bằng, sử dụng nhiều rau quả để cung cấp chất xơ (sợi), tránh các đồ chiên xào quá nhiều mỡ hoặc gia vị. Cần dành thời gian cho việc ăn uống; những bữa ăn vội vã sẽ làm cho dịch vị tiết ra nhiều gây đau cho vết loét.

Chẩn đoán loét dạ dày như thế nào?

Việc chẩn đoán cần đến kỹ thuật chụp fibroscopie dạ dày để thấy rõ vết loét và lấy sinh thiết các mảnh màng nhày. Bệnh nhân không thoải mái lắm với phương pháp này nên có thể trắc nghiệm gián tiếp bằng cách dùng test qua đường hô hấp.

Điều trị ra sao?

Cơ bản nhất vẫn là dùng thuốc tác dụng cùng lúc làm giảm tiết dịch vị và kháng sinh để tiêu diệt HP. Hai nhóm dược phẩm thường được sử dụng:

- Chống tăng tiết để ngăn chặn sự sản xuất acid chlorhydric và làm liền các tổn thương màng nhày: đó là chất ngăn chặn pompe proton thường được dùng từ 4-6 tuần.

- Các kháng sinh để tiệt trừ HP thường là amoxicillin và clarithromycin trong ít nhất là một tuần. Trong vài ngày, các triệu chứng biến mất nhưng không nên ngưng điều trị vì bệnh dễ tái phát cùng với chủng HP đã đề kháng với liều điều trị và kháng sinh cũ.

Khi nào cần đến phẫu thuật?

Với sự tiến bộ trong liệu pháp điều trị, chỉ định phẫu thuật ngày càng ít. Tuy nhiên, trong trường hợp xuất huyết dạ dày, bác sĩ phẫu thuật sẽ phải khâu lại các mạch máu hoặc khâu lại vết loét.

Trong loét dạ dày, điều gây lo ngại là sự phát triển thành ung thư. Sau nhiều lần tái đi tái lại không được điều trị đúng mức hoặc trong trường hợp nghi ngờ tình trạng của vét loét, bác sĩ phẫu tuật có thể lấy đi một phần dạ dày nơi có vết loét rồi tùy tình hình, có thể đồng thời cắt dây thần kinh phế vị để giảm tình trạng tiết ra acid chlorhydric

Biến chứng gồm những gì?

Nếu không được điều trị, vết loét có thể phát triển các biến chứng như xuất huyết dạ dày hoặc thủng dạ dày. Xuất huyết có thể được nhận biết ở tình trạng nôn ra máu (màu đỏ hoặc đen) hoặc có máu đen trong phân. Tình trạng xuất huyết cho thấy mức trầm trọng các mạch máu bị tổn thương.

Thủng bao tử thường kèm theo đau dữ dội ở bụng, cần phải thăm khám khẩn cấp. Chúng thường kéo theo viêm màng bụng. Bệnh nhân cần được nhập viện và can thiệp bằng phẫu thuật. Có bệnh nhân không đau dữ dội nhưng vẫn bị xuất huyết.


Theo Đẹp, TTO

Nguy cơ ngộ độc thuốc paracetamol

Trước năm 2002, các trường hợp ngộ độc paracetamol rất ít gặp. Nhưng thống kê trong hai năm gần đây (2002-2004) cho thấy, tỷ lệ ngộ độc paracetamol đã đứng hàng thứ hai (sau ngộ độc thuốc ngủ và thuốc an thần) trong số các bệnh nhân ngộ độc thuốc phải điều trị.

Các chuyên gia cảnh báo, ngộ độc paracetamol có xu hướng gia tăng vì thuốc này được coi là thuốc an toàn và người bệnh có thể tự mua không cần đơn của thầy thuốc.

Nguyên nhân ngộ độc chủ yếu do sử dụng quá liều. Các triệu chứng ngộ độc biểu hiện: chán ăn, buồn nôn, vã mồ hôi, khó chịu, có thể đau hạ sườn phải. Trong trường hợp nặng, bệnh nhân có thể tử vong do suy đa tạng (thận, gan).

Theo Thanh Niên, VNN