Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng

Những thực phẩm chống lõa hóa bạn nên biết

Chất chống oxy hóa (COH) có trong các thực phẩm giàu vitamin A, E, C, Beta - Caroten, Selen…, được tìm thấy nhiều trong trái cây và rau quả, thảo dược, các loại hạt, ngũ cốc…

Theo Vnexpress

Các viêm nhiễm tại mi mắt

Tỷ lệ viêm bờ mi khá cao nhưng thường bị bỏ qua vì không gây mù lòa, không gây chết người. Thế nhưng, những khó chịu mà bệnh này gây ra, lượng thuốc men mà người bệnh phải hao tốn lại không hề nhỏ. Nhiều người còn tự mua thuốc hoặc mách bảo nhau dùng những thuốc có chứa cortizol kéo dài. Triệu chứng bệnh thì có giảm nhưng những hệ lụy mà nó đem lại thật nguy hiểm khôn lường: bội nhiễm nấm, vi khuẩn, glaucoma do dùng cortizol kéo dài, đục thủy tinh thể...

Các nhà khoa học Anh, Mỹ chia các bệnh viêm nhiễm tại mi làm 4 nhóm chính: lẹo, chắp, viêm phần trước mi (viêm bờ mi), viêm phần sau mi (viêm và loạn năng tuyến Meibomius).

Có rất nhiều yếu tố gây viêm mi như vệ sinh kém, bội nhiễm các vi khuẩn gây bệnh trong vật dụng hằng ngày (khăn mùi xoa chẳng hạn); bụi, ô nhiễm, sử dụng máy điều hòa, chứng khô mắt, đái tháo đường, vảy nến. Chính thầy thuốc cũng có thể góp phần gây viêm bờ mi cho bệnh nhân khi dùng các nội tiết tố như oestrogen, androgen hay điều trị tia xạ kéo dài.

Thủ phạm gây viêm bờ mi thường là tụ cầu, nấm hay demodex. Viêm mi do tụ cầu thường gây chắp hay hay lẹo, loét trợt bờ mi, nặng hơn có thể gây viêm giác mạc ở 1/3 dưới.

Viêm bờ mi

Bệnh nhân thường than phiền về cảm giác nóng rát trong mắt, cộm như có cát ở trong mắt, chảy nước mắt, đau mức độ trung bình tại mắt và mi, đôi khi bệnh nhân cảm giác nhìn mờ, nhất là vào buổi sáng. Khi thăm khám lâm sàng, thấy bờ mi đỏ, quanh chân lông mi có nhiều chất bẩn và vảy tiết, kèm theo đó là tình trạng giãn mao mạch dọc theo phần trước của bờ tự do. Các lỗ ra của tuyến giãn rộng và nhiều chất bã nhờn. Cũng có thể có tình trạng bã tiết các chất bọt.

Thường thì viêm bờ mi sẽ đi kèm với viêm kết mạc, gọi là viêm bờ mi-kết mạc.

Bệnh viêm mi tăng tiết bã nhờn: Chính tên bệnh đã phản ánh bản chất của nó. Thường là bệnh thứ phát trên cơ địa viêm da tăng tiết bã nhờn. Các tổn thương tại da: Ban đỏ, đóng vảy ở chân tóc và vùng mặt, thường có trước những tổn thương tại mi. Các yếu tố thuận lợi cho bệnh phát triển là khí hậu lạnh, nghiện rượu, bệnh lý thần kinh, tình trạng stress hay AIDS. Tiến triển của viêm mi thường song song với tình trạng tổn thương ở da (thoái triển hoặc kịch phát).

Bệnh trứng cá đỏ: Trứng cá đỏ gây phiền toái cho khoảng 10% dân số thế giới, trong đó 50% có biểu hiện tại mắt. Các yếu tố khơi mào cho bệnh phát triển có thể là nhiệt độ bất thường (quá nóng hoặc quá lạnh), da sáng màu, ăn nhiều gia vị hoặc các chất cay, nóng, bia, rượu, thuốc lá… Những biểu hiện của bệnh trứng cá đỏ rất đa dạng: viêm mi, phình giãn mao mạch ở bờ mi, đa chắp tái phát, kết mạc cương tụ, viêm thượng củng mạc, tân mạch giác mạc, mụn nước và loét bờ mi. Trứng cá đỏ thường đi kèm với loạn năng tuyến Meibomius.

Viêm mi do loạn năng tuyến Meibomius: Tuyến Meibomius là một tuyến ngoại tiết mà các lỗ mở ra bờ tự do của mi, phía sau các chân lông mi. Chức năng của nó tạo ra lớp lipid của phim nước mắt, lớp này có tác dụng chống bay hơi cho phim nước mắt và quyết định chất lượng của phim nước mắt. Viêm, nhiễm trùng, quá mẫn cảm là những yếu tố có thể thay đổi chất lượng của phim nước mắt và cũng là nguyên nhân viêm bờ mi.

Hậu quả chủ yếu của viêm bờ mi là cảm giác khô rát mắt. Nguyên nhân là nước mắt bị bay hơi quá nhanh do lớp mỡ của phim nước mắt có chất lượng kém - một hệ quả tất yếu của loạn năng tuyến Meibomius.

Viêm bờ mi có xu hướng mạn tính và kèm theo nó là các biến chứng tiềm tàng và khó tránh khỏi. Việc điều trị giúp kiểm soát tình hình chứ gần như không thể làm khỏi bệnh hoàn toàn được. Phương pháp điều trị bao gồm: Vệ sinh cá nhân, chủ yếu là rửa tay, dùng khăn lau loại một lần, massage nhiều lần trong ngày lên bờ mi có dùng găng tay và gạc chườm nóng hoặc dùng gel đặc trị đánh lên bờ mi bằng tăm bông. Các biện pháp trên chủ yếu để dẫn lưu tuyến Meibomius.

Điều trị bằng kháng sinh tại chỗ hoặc đường toàn thân đôi khi rất hữu ích. Các kháng sinh được khuyên dùng thuộc nhóm tetracycline và oxytetracycline như mỡ tetracycline, mỡ posicycline và nhóm sunfamide như bacitracine.

Bệnh chắp

Đó là một khối u lành tính trên mi. Chắp chính là vùng sưng phồng xuất hiện ngay trên vùng bị tắc nghẽn các ống tuyến Meibomius. Trên lâm sàng, chắp biểu hiện như một khối tròn nhỏ, sưng đỏ. Vị trí thường ở ngay sát bờ tự do của mi. Chắp có 3 hình thái lâm sàng: Ở phía trong, ở phía ngoài và ngay trên bờ tự do. Tiến triển của chắp có thể theo nhiều hình thức: Nang hóa, gây khó chịu cho mắt và buộc phải chích tháo mủ; hóa mủ và ápxe hóa; tự vỡ mủ hoặc rò mủ ra ngoài da; tự khỏi.

Dù là tiến trình nào thì chắp cũng có thể tái phát. Điều trị thường là chườm nóng, dùng kháng sinh kết hợp với corticoide tại chỗ trong 7 ngày. Có tới 50% các trường hợp phải giải quyết bằng thủ thuật ngoại khoa, khi chắp đã ở giai đoạn “nguội” - ngoài giai đoạn viêm cấp.

Bệnh lẹo

Đó là hiện tượng viêm cấp của tuyến bã quanh chân lông mi, nguyên nhân thường do tụ cầu. Ban đầu chỉ là phù mi rồi xuất hiện một ổ sưng, đỏ, đau khi chạm vào. Sau vài ngày, cảm giác đau sẽ trở thành nhức buốt kèm theo sự hóa mủ vàng tại chân lông mi. Những khó chịu này sẽ biến mất nếu lẹo vỡ mủ và thoát ra ngoài cùng với lông mi. Điều trị thường bằng chườm nóng, mỡ kháng sinh có phối hợp với corticoide trong 48 giờ đầu. Sau đó chích tháo mủ sẽ được xem xét. Những trường hợp nặng có phù nề mạnh, phản ứng viêm hạch lân cận thì bắt buộc phải dùng kháng sinh đường uống. Để đề phòng lẹo thì chỉ có một cách là vệ sinh bờ mi thật tốt.



Theo Sức khỏe & đời sống, TTO

Nhiễm khuẩn tiết niệu ở trẻ em những điều cần biết

Nhiễm khuẩn đường tiết niệu rất hay gặp ở trẻ em, đứng hàng thứ 3 sau các bệnh nhiễm khuẩn hô hấp và tiêu hóa. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, bệnh có thể để lại nhiều biến chứng và di chứng nặng nề. Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là các vi khuẩn gram âm như E.coli, Proteus..., một số cầu khuẩn đường ruột, virus, nấm....

Về biểu hiện lâm sàng, có thể gặp các thể nhiễm khuẩn đường tiểu: viêm thận, bể thận hay nhiễm khuẩn đường tiểu trên (thường kèm theo viêm mô kẽ thận); viêm bàng quang hay nhiễm khuẩn đường tiểu dưới.

Bệnh không có triệu chứng đặc hiệu nên các dấu hiệu lâm sàng chỉ có giá trị gợi ý, chẳng hạn: Trẻ sốt cao, rét run, toàn thân có tình trạng nhiễm khuẩn, nhiễm độc. Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ đôi khi không có sốt, có thể thấy các biểu hiện như một tình trạng nhiễm khuẩn huyết: vàng da, hạ thân nhiệt... Bệnh nhi có thể đái ít, đái buốt, nước tiểu đục.

Nếu trẻ bị viêm bàng quang, có thể thấy trẻ đái rắt, đái đau, đái rặn. Nhiều trẻ la hét, sợ hãi hoảng hốt khi đái. Có thể để ý thấy bàn tay của trẻ khai do trẻ luôn nắm hoặc kéo dương vật. Đôi khi trẻ có thể kêu đau vùng hạ vị.

Nếu trẻ bị viêm nhiễm đường tiết niệu trên, ngoài tình trạng nhiễm khuẩn toàn thân trẻ có thể kêu đau vùng thận.

Khi thấy trẻ có các biểu hiện nghi ngờ, cần đưa đến các trung tâm y tế làm xét nghiệm, siêu âm, chụp X-quang... để chẩn đoán kịp thời.

Trẻ viêm bàng quang thường được điều trị tại nhà bằng một trong các loại kháng sinh uống như amoxicillin, ampixillin, cotrimoxazol. Thời gian điều trị 5-7 ngày. Những trẻ viêm đường tiết niệu trên
nên nằm viện.

BS. Nguyễn Minh Hồng, Sức Khỏe & Đời Sống

Theo VnExpress

Cẩn thận khi sử dụng aspirin

Tên thuốc “aspirin” chính thức ra đời từ năm 1899. Ban đầu nó được bào chế dưới dạng bột, và một năm sau được bán dưới dạng viên. Ngày nay aspirin dùng khá phổ biến với rất nhiều biệt dược (tên thương mại) và dưới nhiều dạng: viên nén, viên bao, gói thuốc bột, viên sủi, viên aspirin pH8... 



Aspirin và hội chứng Reye (HCR)
Trẻ em và thiếu niên uống aspirin trong một hoàn cảnh nhất định nào đó có thể bị nguy hiểm, đó là hội chứng Reye (HCR). HCR đặt theo tên nhà nghiên cứu bệnh học Douglas Reye (người Australia) - lần đầu tiên mô tả căn bệnh này từ năm 1963 ở một viện tại Sydney. HCR gồm hai nhóm triệu chứng: hội chứng não cấp và thoái hóa mỡ ở các phủ tạng (não, thận, tim, nhất là gan), bệnh rất nặng có tỷ lệ tử vong cao.

Theo thống kê thì cứ 2 bệnh nhi chỉ cứu được 1, đứa trẻ sống sót cũng bị tổn thương nặng nề ở não. Hầu hết các đứa trẻ đều bị sốt do cảm cúm, hoặc thủy đậu, rồi được cho uống aspirin, sau đó bị nôn mửa, bất tỉnh, đôi khi có co giật, dẫn đến tử vong nhanh. Từ giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, Ủy ban An toàn dược phẩm Vương quốc Anh đã công bố một khuyến cáo: “Không dùng aspirin cho trẻ em dưới 12 tuổi, trừ trường hợp bệnh thấp khớp”.

Còn ở Cộng hòa Liên bang Đức, Bộ Y tế đã quyết định ghi thêm trong đơn chỉ dẫn những tác hại bên cạnh những tác dụng của aspirin. Tại bang Michigan (Mỹ) từ năm 80 thế kỷ XX trở đi, nhờ thông tin rộng rãi trên báo chí về nguy cơ phát sinh HCR do trẻ em uống aspirin mỗi khi mắc bệnh thủy đậu, mà HCR đã giảm rõ rệt mặc dù bệnh thủy đậu vẫn tồn tại hằng năm.

Aspirin với bệnh nhân hen suyễn

Người bệnh hen không được dùng aspirin, vì nó làm cho cơn hen trở nên trầm trọng, thậm chí nguy hiểm tới tính mạng. Aspirin có thể gây ra phản ứng lên cơn hen không theo cơ chế miễn dịch, vì thế còn gọi là dị ứng giả, hay đặc ứng. Cơ chế đặc ứng gây hen... của aspirin chưa được hiểu biết tường tận, chỉ biết nó liên quan tới nhiều yếu tố, nhất là sự mất cân bằng chuyển hóa acid arachidonic, tăng giải phóng các chất trung gian từ dưỡng bào (mastocyte) phế quản, các chất trung gian tiền viêm, prostaglandin và leucotrien...

Hen phế quản do aspirin thường xảy ra ở những người có tiền sử dị ứng (viêm mũi dị ứng, người từng có những cơn hen đã điều trị ổn định...), xuất hiện đợt cấp tính khi sử dụng aspirin, các triệu chứng thường xuất hiện 2-3 giờ sau dùng thuốc, với biểu hiện nặng, kéo dài thậm chí tử vong.

Một số trường hợp khác cần lưu ý

- Do đặc tính chống kết tập tiểu cầu làm tăng chảy máu, máu không đông, phụ nữ đang hành kinh không nên dùng aspirin, đặc biệt những người đang bị rong kinh, rong huyết không dùng aspirin để hạ sốt, giảm đau... Những người mắc các chứng hay chảy máu cũng không được dùng.
- Phụ nữ có thai ở 3 tháng cuối không được dùng aspirin vì có thể kéo dài thời gian thai nghén, và thuốc có thể gây độc cho thai nhi, gây chảy máu ở trẻ sơ sinh, sản phụ dễ bị băng huyết khi đẻ. Người nuôi con bú cũng không dùng aspirin, vì thuốc ngấm qua sữa mẹ, có khả năng gây độc cho đứa trẻ.

- Người bệnh viêm loét dạ dày - hành tá tràng không được dùng aspirin, bởi aspirin tạo điều kiện cho acid dịch vị và men pepsin gây tổn thương cho niêm mạc dạ dày sau khi hàng rào bảo vệ bị suy yếu. Nó làm tăng những ổ viêm loét vốn có trong dạ dày, thậm chí có thể làm chảy máu, hoặc nặng hơn là làm thủng dạ dày.

- Những người bị suy gan, thận, bị các chứng thiếu máu (do aspirin làm giảm tuổi thọ hồng cầu) đều không được dùng aspirin. Những người đang dùng các thuốc chống đông máu, methotrexat tuyệt đối không dùng aspirin.

- Khi uống aspirin không được uống rượu, bởi rượu làm tăng kích ứng niêm mạc dạ dày của aspirin. Bản thân aspirin có tính acid, có thể làm cho bộ máy tiêu hóa cồn cào khó chịu, nên uống thuốc vào lúc no.

- Ngoài ra, tuy aspirin ít độc, dễ uống, nhưng nếu dùng lâu dài có thể gây hội chứng buồn nôn, nôn, ù tai, điếc, lú lẫn... Khi có bệnh cần hạ sốt, giảm đau... mọi người không nên tự ý uống aspirin, mà cần qua cán bộ y tế hướng dẫn dùng thuốc.



Theo Sức khỏe & đời sống, TTO

Viên canxi, vitamin D không giúp bạn bảo vệ được xương!

Việc dùng canxi và vitamin D chỉ giúp giảm một ít nguy cơ gãy xương hông ở phụ nữ cao tuổi, nhưng không có tác dụng đối với các nguy cơ gãy xương khác hoặc với ung thư ruột kết, theo nghiên cứu mới đây nhất do Tổ chức sức khỏe phụ nữ Mỹ thực hiện.

Cuộc nghiên cứu này đã tiến hành khảo sát trên 36.000 phụ nữ sau mãn kinh và phát hiện việc bổ sung canxi và vitamin D theo tiêu chuẩn trong vòng 7 năm không có tác dụng đáng kể đối với việc ngăn ngừa gãy xương sống, xương tay và xương hông, mặc dù nó giúp cải thiện 1% mật độ xương chậu.

Trong một nghiên cứu song song đó, các nhà khoa học phát hiện canxi và vitamin D cũng không có tác dụng ngăn ngừa ung thư ruột kết ở phụ nữ, mặc dù trước đây đã từng có các nghiên cứu cho rằng phụ nữ và nam giới có thể giảm nguy cơ mắc ung thư ruột kết nếu họ dùng bổ sung canxi.

Nghiên cứu mới nhất này đưa ra một thông điệp: canxi và vitamin D không phải là phép màu, song bạn cũng nên lưu ý hấp thu chúng mỗi ngày. Ngoài ra cũng nên biết vẫn còn có nhiều cách khác giúp tăng mật độ xương: các bài tập thể dục mang vác nặng, các loại thuốc theo toa bác sĩ…

T.VY (Theo Xinhua)



Theo Tuổi trẻ Online