Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng

Top 10 thức ăn ngon và tốt cho sức khoẻ

Chúng ta hoàn toàn có quyền thích hay không thích những món mà chúng ta ăn. Tuy nhiên có những thức ăn mà tất cả chúng ta đều phải đảm bảo trong chế độ ăn hàng ngày, đơn giản vì chúng tốt cho sức khỏe chúng ta. Chúng tôi giới thiệu đến bạn danh sách top 10 loại thức ăn tốt nhất cho mỗi người.

1. Cá ngừ
Bao gồm cá ngừ và các loài cá da sẫm màu, béo khác. Những loại cá béo này chứa axit béo omega-3, giúp giảm lượng cholesterol và giảm nguy cơ bệnh tim. Các nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng axit omega-3 cũng có thể giữ một vai trò quan trọng trong ngăn ngừa các bệnh như tăng huyết áp, viêm khớp mạn tính, bệnh Alzheimer, trầm cảm, hội chứng khô mắt và có thể cả bệnh ung thư. Đây là những căn bệnh ảnh hưởng đến nhiều người trên thế giới.
Hãy lập kế hoạch ăn cá béo ít nhất 2-3 lần/1 tuần.

2. Trứng
Chỉ có 75 calori nhưng một quả trứng cung cấp đến 12% protein hàng ngày, cũng như có nhiều dưỡng chất khác như vitamin A, B6, B12, D, folate, sắt, phospho và kẽm. Trứng cũng được phân loại như là “thức ăn chức năng”, loại thức ăn tốt cho sức khỏe.

Chìa khoá của nó là carotenoids, lutein và zeaxanthin được tìm thấy trong lòng đỏ trứng. Các chất này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực thị giác và ngăn ngừa một số nguyên nhân phổ biến gây mù mắt.

Tuy nhiên, bạn cũng nên cẩn thận khi dùng trứng: hãy đảm bảo rằng lượng cholesterol của cơ thể bạn bình thường trước khi bắt đầu chế độ ăn nhiều trứng hơn. Bạn có thể bị cao cholesterol mà không biết. Tuy nhiên, nếu lượng cholesterol của bạn đã được kiểm tra và ở mức bình thường, 2 hay 3 quả trứng mỗi tuần có thể tăng cường sức khoẻ cho bạn. Chỉ cần nhớ một điều: nên dùng trứng luộc hoặc khuấy thay vì chiên.

3. Đậu
Gồm đậu đen, đậu lima, đậu tây… Theo các nhà nghiên cứu, ăn nhiều đậu có thể giảm nguy cơ bệnh tim và đột quỵ đồng thời giúp ngăn ngừa ung thư.
Nguyên nhân là đậu là nguồn giàu chất chống oxy hoá. Nhiều loại rau cải, trái cây, đậu và quả hạch được xếp hàng đầu trong danh sách các thức ăn chống oxy hoá.
Một phần ăn gồm 1/3 cốc đậu nấu chứa khoảng 80 calori, ít béo, không cholesterol và nhiều carbohydrate hỗn hợp. Đậu cũng cung cấp các vitamin B, kali và chất xơ. Nó là một món ăn thêm và cũng có thể được dùng để thay thế thịt. Đậu không chứa đầy đủ protein như thịt, bạn có thể bổ sung vào chế độ ăn bằng ngũ cốc hoặc các sản phẩm bơ sữa kèm với đậu. Điều này đặc biệt có lợi cho những người ăn chay.

4. Dừa
Giúp giảm nguy cơ bệnh tim và cao huyết áp. Tác dụng của dừa được thể hiện ở 3 cách: thứ nhất, giữ cho màng trong (lớp tế bào nằm giữa tim và mạch máu) khoẻ mạnh, nhờ đó giảm nguy cơ bệnh tim; thứ hai, giảm huyết áp, cũng có liên quan đến bệnh tim; và thứ ba, điều chỉnh chức năng của tiểu huyết cầu (chất nhỏ hình đĩa ở trong máu giúp máu đóng cục) bằng cách thức tương tự như aspirin.

Thành phần chính trong dừa, mà các nhà khoa học gọi là flavanol, chỉ có mặt trong chocolate đen. Các nhà khoa học cho rằng chỉ cần 1 lượng nhỏ (10g) chocolate đen mỗi ngày thì sẽ không gây hại cho sức khoẻ.

5. Đậu Brazil
Do đậu Brazil chứa nhiều selen nên nó có thể được xem như một nguồn protein “đầy đủ”. Không như đa số các nguồn protein thực vật khác, các protein có trong đậu Brazil gồm tất cả các axit amino cần thiết giúp cho sự phát triển tối ưu của con người tương tự như các protein từ động vật. Nhưng ngay cả các sản phẩm từ động vật như gà và bò cũng không chứa nhiều Selen như đậu Brazil.

Selen còn là một chất chống oxy hoá mạnh. Nó cũng là nguồn cung cấp kẽm rất tốt (kẽm cần thiết cho quá trình tiêu hoá và trao đổi chất).

8 hạt đậu Brazil (30g) được xem là phần ăn vừa đủ. Nó chứa nhiều chất béo, do đó không nên dùng nhiều hơn 3 lần/tuần trong chế độ ăn. Nó cũng có thể thay thế cho các chất béo khác trong chế độ ăn và cũng không nên thêm vào bữa ăn.

Cũng nên lưu ý: đậu Brazil chứa nhiều chất béo bão hoà, do đó nó là một món ăn nguy hiểm nếu như bạn là người mắc bệnh tim. Trong trường hợp này, bạn nên dùng các loại quả hạch khác ít béo hơn, chẳng hạn như quả hạnh, để thay thế.

6. Tỏi
Tỏi không chỉ là một loại gia vị đơn thuần, nó còn là một thức ăn rất có lợi cho sức khỏe. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tỏi có thể giúp ngăn ngừa bệnh tim, cao huyết áp và ung thư, và có thể tăng cường chức năng phổi. Tỏi cũng giúp tăng cường hệ miễn dịch, đặc biệt trong mùa lạnh.
Nên dùng 1-2 tép tỏi trong chế độ ăn hàng ngày của bạn. Nhớ là không nấu tỏi quá chín. Tránh dùng tỏi khi bạn đang dùng thuốc có chất chống làm đông.

7. Sữa chua
Sữa chua không chỉ chứa nhiều canxi cần thiết cho xương mà còn là nguồn probiotic - nguồn thức ăn chứa hoặc bổ sung vi khuẩn có thể được dùng để thay đổi hoặc cải thiện cân bằng vi khuẩn đường ruột, giúp tăng cường sức khỏe. Probioic ngăn ngừa sự tăng trưởng quá mức của vi khuẩn gây hại trong dạ dày-ruột.

Hãy dùng một hũ sữa chua không béo hoặc ít béo trong chế độ ăn mỗi ngày. Rất có ích cho sức khỏe của bạn đấy!

8. Trái cây họ cam quýt
Có thể bạn biết trái cây họ cam quýt là nguồn vitamin C dồi dào, nhưng bạn có biết cam, chanh và bưởi cũng giàu chất chống oxy hóa?

Trái cây họ cam quýt chứa zeaxanthin (như trứng) tốt cho thị lực. Những loại trái cây này cũng giàu flavanone giữ vai trò quan trọng trong ngăn ngừa ung thư. Chúng cũng chứa nhiều axit caffeic giúp giảm nguy cơ bệnh tim và bệnh về mắt.

9. Chuối
Các nghiên cứu chỉ ra rằng những thức ăn giàu kali như chuối có thể giúp giảm nguy cơ đột quỵ.
Kali cũng đóng vai trò quan trọng trong thực hiện chức năng của các cơ, tim và thần kinh. Nó đảm bảo duy trì cân bằng chất lỏng cho cơ thể. Nó cũng ngăn ngừa mất canxi trong nước tiểu.

Ăn nhiều chuối trước giờ ngủ cũng giúp cho giấc ngủ ngon, vì chuối giúp giảm nồng độ serotonin. Trên hết là chuối giúp duy trì sức khỏe đường ruột và là nguồn năng lượng tăng cường khá tốt cho những bữa ăn vội.

10. Trái nam việt quất
Trái nam việt quất với các proanthocyanidin giúp giảm nguy cơ bệnh tim và đột quỵ, tăng cường sức khỏe đường tiểu. Các nghiên cứu mới cho thấy nước ép nam việt quất cũng có thể giúp chống lại các virus dạ dày-ruột. Uống 300 ml nước ép nam việt quất mỗi ngày để đạt những lợi ích kỳ diệu cho sức khỏe.

Tường Vy

Theo Tuổi trẻ Online

Một số lưu ý khi tự theo dõi lúc có thai

Dưới đây là một số điều cần lưu ý khi theo dõi phụ nữ có thai.

Tính số lần thai máy (thai đạp)
Thai động là biểu hiện thai nhi tồn tại. Việc mỗi ngày theo dõi xác định thai động có thể cho biết trước sự an nguy của thai; phương pháp này có một giá trị thực dụng rất lớn. Phụ nữ có thai nói chung phải đến tháng thứ 4-5 mới có thể cảm thấy thai máy. Càng đủ tháng thì thai máy càng khỏe. Khi chửa quá thai kỳ, hiện tượng thai động sẽ giảm đi chút ít, vì thế phải theo dõi ngay hoặc vào bệnh viện kiểm tra, xác định lại tình trạng của thai để có cách xử trí kịp thời.

Chiều cao đáy tử cung
Đo chiều cao đáy tử cung phải bắt đầu từ tuần 28 sau khi mang thai. Nếu người phụ nữ mang thai không thể đến bệnh viện kiểm tra theo dõi định kỳ thì việc đo này càng quan trọng hơn. Từ chính giữa bụng dưới (đáy tử cung) xuống đến xương mu là chiều cao đáy tử cung, đo mỗi tuần một lần. Bình thường nó sẽ tăng 0,5-1,5 cm. Nếu đo liên tục ba lần mà chiều cao đáy tử cung không tăng lên thì có khả năng thai nhi phát triển chậm. Nếu trong một tuần mà nó tăng quá 8 cm thì có thể do đa ối, cần đến bệnh viện kiểm tra ngay.

Một số triệu chứng khác
Trong thời kỳ mang thai, cơ thể người phụ nữ rất nhạy cảm, nếu thấy các triệu chứng sau đây thì cần phải đề cao cảnh giác, kịp thời đến bệnh viện điều trị:

Nôn mửa nhiều lần: Nôn mửa nhẹ là biểu hiện thường thấy nhất trong thời kỳ có thai ở giai đoạn đầu, qua vài tuần thì hết không cần điều trị gì. Nhưng nôn mửa nhiều lần và có tính liên tục, ăn vào thứ gì nôn ra thứ ấy, thậm chí kể cả nước uống thì có thể dẫn tới mất nước và điện giải, nguy hiểm đến tính mạng của cả mẹ và con, cần đi khám và điều trị ngay.

Đau bụng dưới: Đau bụng từng cơn, có cảm giác đau đẻ, kèm theo mỏi lưng, nhất là có hiện tượng chảy máu âm đạo có thể là dấu hiệu báo trước của sẩy thai hoặc sinh non, rau tiền đạo.

Phù nặng: Thời kỳ giữa và cuối của thời kỳ mang thai, người phụ nữ có thể bị xuống máu chân gây phù nhưng không khó chịu gì, đó là hiện tượng bình thường. Nhưng nếu phù nghiêm trọng có kèm tăng huyết áp phải nghĩ đến nhiễm độc thai nghén.

Cân nặng tăng quá nhanh: Nếu mỗi tuần lên cân quá 400 g thì có khả năng sinh đôi, đa ối hoặc nhiễm độc thai nghén, cần đi khám ngay.

Bị cảm, cúm, sởi: Trong ba bốn tháng đầu thai nghén nếu bị nhiễm sởi hoặc cúm thì rất dễ gây nguy hại cho thai nhi. Vì vậy, nếu xác định bị cúm hoặc sởi, nên đến khám tại khoa sản, bác sĩ có các biện pháp xử lý kịp thời.

Tiểu tiện khác thường: Nếu tiểu có cảm giác rát đau hoặc có đau bụng, bị lạnh và sốt, có khả năng bị viêm nhiễm hệ tiết niệu.

Sợ hãi, thở ngắn: Cuối kỳ mang thai, nếu làm việc nặng, thai phụ thường có cảm giác sợ hãi, thở ngắn, hụt hơi. Phần nhiều đó là hiện tượng bình thường, nhưng nếu hoạt động nhẹ hoặc ở trạng thái nghỉ ngơi cũng bị hoảng hốt, thở ngắn rõ rệt hoặc tim đập mạnh khó thở đến mức không nằm được thì có thể nghĩ đến bệnh tim, cần phải khám và điều trị sớm.

Phát sốt, hạch lympho sưng to: Có thể nghĩ đến một bệnh nhiễm trùng nào đó. Nếu có mệt mỏi, vàng da, ăn kém, thì nghĩ đến bệnh viêm gan siêu vi, nên đến bệnh viện để kiểm tra

Âm đạo chảy ra chất như nước: Cần kiểm tra xem có phải là nước ối không, cần cảnh giác với màng thai bị rách sớm hoặc sinh non.

Âm đạo chảy máu: Nếu âm đạo chảy máu thì là hiện tượng không thể coi thường được. Nếu thấy đau bụng dưới thì có thể nghĩ đến sẩy thai, chửa ngoài dạ con, nhau thai bị rách sớm hoặc sinh non, cần phải đến bệnh viện ngay. Nhưng trong một tháng đầu mang thai, có thể có chút ít kinh nguyệt, nếu không thấy có triệu chứng gì khác thì đó là hiện tượng bình thường, không cần hoảng hốt.

Ngoài ra, phụ nữ mang thai có thể thấy có những triệu chứng như co gân chân, bí đại tiện, giãn tĩnh mạch, thiếu máu. Các triệu chứng này đều là hiện tượng sinh lý, không nên dùng thuốc, nếu có phải theo chỉ định của bác sĩ.

Việc tự theo dõi quá trình mang thai của mình có tính khách quan hơn so với việc kiểm tra trước khi sinh tại bệnh viện. Sự kết hợp chặt chẽ hai việc này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sức khỏe cho phụ nữ mang thai.



Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Bảo vệ sức khỏe với các acid béo omega-3

Cá, đặc biệt là mỡ cá có chứa nhiều acid béo không no đa nối đôi omega-3, một chất có vai trò quan trọng trong sự trưởng thành và phát triển của cơ thể. EPA (eicosapentaenoic acid) và DHA (decosahecxaenoic acid) là các acid béo không no thiết yếu thuộc họ omega-3 tham gia vào cấu trúc và chức năng tế bào thần kinh, màng các tế bào trong cơ thể, có vai trò quan trọng trong hoạt động chức năng của tế bào.

Một chế độ ăn lý tưởng nhất cho sự phát triển và hoạt động của não, cho chức năng sinh lý màng tế bào, chức năng miễn dịch và bảo vệ của cơ thể là tỷ lệ acid béo không no omega-3/omega-6 là 1-3/1. Omega-3 có nhiều trong cá, đặc biệt là mỡ cá, tôm, cua, tảo sinh vật phù du.

Omega-6 có trong thịt động vật, nhất là động vật nuôi, hầu hết các loại dầu thực vật. Mặc dù cũng là một acid béo không no thiết yếu, nhưng omega-6 không có những đặc tính có lợi cho não, cho các phản ứng viêm và các phản ứng miễn dịch như omega-3.

Não người được cấu tạo bởi trên 60% là acid béo, chúng là thành phần cơ bản của màng tế bào, bảo đảm cho mọi hoạt động chức năng của tế bào thần kinh. Trong thời kỳ bào thai, từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 6, não bộ hình thành và phát triển.

Nếu người mẹ được cung cấp tỷ lệ cân đối giữa omega-3 và omega-6 sẽ bảo đảm cho tế bào não phát triển tốt, điều này ảnh hưởng tới trí thông minh của trẻ sau này. Ở người trưởng thành, chế độ ăn cung cấp đủ omega-3 đã làm giảm được tỷ lệ bệnh trầm cảm, các hoạt động chức năng thần kinh linh hoạt hơn.

Omega-6 trong thành phần cấu tạo màng tế bào, tham gia vào cơ chế hình thành prostaglandin và leukotrien dưới tác dụng của cyclooxygenase và lypoxygenase. Đây là các chất tham gia vào cơ chế gây viêm, nhất là các quá trình viêm mạn tính, gây tăng quá trình đông máu do làm tăng kết dính tiểu cầu và co mạch, tạo thuận lợi cho nhồi máu cơ tim, nhồi máu não, tăng quá trình tổng hợp interleukin-1, yếu tố hoại tử khối u (TNF) và các cytokin khác liên quan đến các bệnh tự miễn dịch như viêm khớp dạng thấp, hen phế quản, bệnh cầu thận mạn tính, bệnh viêm loét đại trực tràng (bệnh Crohn), bệnh vảy nến.

Từ khoảng 100-150 ngàn năm nay, loài người đã thay đổi thói quen chuyển từ ăn nhiều thủy hải sản sang ăn nhiều thịt động vật, các loại hạt và dầu thực vật, làm cho tỷ lệ omega-3/omega-6 vào khoảng 1/30-50. Sự mất cân đối này dẫn tới dễ sản sinh quá mức các prostaglandin, leukotrien, các cytokin. Điều này dẫn tới quá trình viêm tiến triển mạn tính, khởi phát và duy trì các bệnh tự miễn và các bệnh có cơ chế miễn dịch.

Các nghiên cứu ở cả động vật và người trong vòng 20 năm nay cho thấy khi ăn chế độ ăn nhiều omega-3 (thực phẩm thủy hải sản) thì thấy omega-3 thay thế omega-6 trong cấu trúc màng của tất cả các tế bào (tế bào thần kinh, hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu, tế bào nội mạc mạch máu, tế bào xơ non, tế bào lưới, tế bào gan...). Sự cạnh tranh giữa omega-3 và omega-6 đã làm giảm hẳn các chất trung gian gây viêm, các yếu tố làm khởi phát và gây rối loạn miễn dịch.

Các nghiên cứu lâm sàng cho thấy rõ lợi ích của việc sử dụng omega-3 (chế độ ăn cá thường xuyên > 3 bữa/tuần) đã làm giảm tỷ lệ bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, giảm tần số loạn nhịp thất. Những người có nồng độ omega-3 trong máu cao (nhóm ăn thủy hải sản) giảm được 80% nguy cơ đột tử do tim và giảm 34% nguy cơ bị bệnh mạch vành tim so với người có nồng độ omega-3 trong máu thấp (nhóm chứng).

Omega-3 còn làm giảm mỡ máu, giảm triệu chứng viêm khớp dạng thấp, giảm mức độ nặng và số cơn hen phế quản, làm chậm tiến triển của bệnh thận IgA và viêm cầu thận màng tăng sinh týp 2, giảm triệu chứng của bệnh vảy nến, viêm loét đại trực tràng (bệnh Crohn).

Chính vì vậy ăn cá mỗi tuần 2-3 bữa mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Các dấu hiệu nhận biết loãng xương

Gãy xương do loãng xương dễ xảy ra với người mà lúc nhỏ ít tham gia những trò chơi hoạt động ngoài trời, chế độ ăn uống nhiều thịt heo, ít ăn tôm, cá, sữa.

 Khi lớn lên, nhiều người ngồi lâu bên bàn vi tính, ít vận động, hút thuốc lá, uống rượu, nước ngọt, dùng thuốc (thuốc ngủ, cortisone, hạ huyết áp...). Những người này dễ bị gãy xương, gãy cổ xương đùi, cẳng tay, cột sống. Riêng gãy cổ xương đùi có thể khiến 20% tử vong trong năm đầu.
Sai lầm trong ăn uống và luyện tập

Một số người cho rằng uống sữa canxi sẽ không bị loãng xương là không đúng vì canxi chỉ là một phần của xương. Do đó, có những đứa trẻ bị còi xương dù lượng canxi không thiếu mà xương không hấp thụ được canxi vì thiếu sinh tố D. Đây là nguyên nhân các bác sĩ thường khuyên các bà mẹ sinh con đầu lòng không “ủ” con mà đem phơi nắng sáng để cơ thể bé tổng hợp sinh tố D. Ở người lớn cũng vậy, nắng sớm rất tốt cho sức khoẻ. Việc uống sữa đầy đủ cũng không đủ canxi cho xương nếu không kết hợp ăn uống, thể dục và dùng thuốc hợp lý.

Một nguyên nhân nữa khiến một số người phải nhập viện do tập thể thao không đúng. Bác sĩ Nguyễn Văn Quang, bệnh viện Chấn thương chỉnh hình TP.HCM cho biết: “Tuổi nào nên chọn môn thể thao phù hợp với tuổi đó. Cao tuổi rồi mà còn chạy nhảy thì trặc khớp, thoát vị đĩa đệm là chuyện thường xảy ra”.

Phát hiện loãng xương

Có nhiều cách phát hiện: Đo loãng xương bằng sóng siêu âm (đo xương gót), mức độ chính xác 60 - 70% chỉ có tác dụng tầm soát diện rộng (thường được các công ty sữa dùng để đo loãng xương miễn phí). Ngoài ra, phương pháp đo loãng bằng DEXA thực hiện tại Bệnh viện Phụ sản quốc tế Sài Gòn, Từ Dũ, Chấn thương chỉnh hình... giá từ 80.000 đồng đến 120.000 đồng.

Nhanh chóng và giá mềm nhất là đo loãng xương qua mạng bằng Radiography Absorptionmetry kỹ thuật OsteoGram. Phương pháp này chính xác, ít gây nhiễm xạ cho bệnh nhân nên được cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) công nhận và được sử dụng tại nhiều nước... Không chỉ đo cho bệnh nhân tại trung tâm, kỹ thuật này còn đo cho bệnh nhân vùng xa thông qua mạng Internet.

Bác sĩ Nguyễn Văn Công, Trung tâm Chẩn đoán y khoa (MEDIC) cho biết: Chỉ cần sử dụng các phương tiện sẵn có như máy X-quang, phim, cassette thường quy và ứng dụng thành tựu công nghệ thông tin ta có thể đo loãng xương cho các cơ sở vùng xa không có phần mềm OsteoGram. Khách hàng chỉ cần cân, đo, và để bàn tay lên mặt bàn chụp hình là xong. Các khâu còn lại do nhân viên y tế xử lý.

Các bác sĩ Hồ Chí Trung, Nguyễn Văn Công - Medic, đã thực hiện một nghiên cứu so sánh trên 100 trường hợp bệnh nhân ở bệnh viện Nhật Tân ở Châu Đốc, Bệnh viện Bình An ở Kiên Giang, kết quả tương tự như đo tại Medic. Giá 50.000 đồng/lần đo loãng xương. Bác sĩ Nguyễn Văn Công còn cho biết thêm: “Khi phát hiện loãng xương, việc điều trị bằng cách dùng thuốc, vận động, ăn uống giúp giảm 50% nguy cơ gãy xương”.

Tốn kém nhất nhưng chính xác hơn cả là dùng QCT phát hiện loãng xương (chủ yếu ở cột sống) giá 500.000đ/một lần đo tại MEDIC. Ngoài ra, hiệu quả nhất là ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, vận động, không uống rượu, hút thuốc lá. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, cua đồng, cua lột, tôm, cá trích, cá mòi... có nhiều canxi và tốt cho cơ thể. Và khi thấy cơ thể đau nhức, phụ nữ ở trong độ tuổi tiền mãn kinh, nam giới thời kỳ tắt dục nên đi đo loãng xương để có biện pháp điều trị tích cực và phòng ngừa các tai nạn do xương mất đi độ cứng chắc gây ra.



Theo SGTT, Tuổi trẻ online

Dùng thuốc trong điều trị rối loạn giấc ngủ

Trong suốt cuộc đời, mỗi người trung bình ngủ khoảng 220.000 giờ và rối loạn giấc ngủ thường là triệu chứng sớm nhất của các bệnh tâm thần.

Bình thường người ta ngủ khoảng 6-7 giờ/đêm. Chu kỳ sinh học của giấc ngủ là 25 giờ, nhưng do ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài nên nhịp thức ngủ chỉ là 24 giờ. Người ta chia giấc ngủ thành 2 giai đoạn: ngủ chậm và ngủ nhanh.
Giai đoạn ngủ chậm chiếm khoảng 75% thời gian ngủ, còn giai đoạn ngủ nhanh chiếm 25% còn lại. Sự di chuyển từ pha ngủ nhanh sang pha ngủ chậm và ngược lại nhìn chung diễn ra rất nhanh, thực ra chỉ phân biệt được rõ ràng 2 giai đoạn này khi làm điện não đồ trong giấc ngủ.

Mất ngủ tiên phát là người bệnh than phiền chủ yếu: khó vào giấc ngủ hoặc khó giữ giấc ngủ và kéo dài ít nhất trong thời gian một tháng. Mất ngủ tiên phát xảy ra độc lập không liên quan đến bất kỳ rối loạn cơ thể hoặc tâm thần nào khác. Bệnh nhân tăng hoạt động vào ban đêm và ít ngủ, cảm giác vui vẻ hoặc u sầu quá mức.

Mất ngủ tiên phát dẫn tới rối loạn lo âu, cáu gắt, uể oải, mệt mỏi, giảm sút khả năng lao động, khó tập trung chú ý, giảm trí nhớ... Mất ngủ tiên phát hay gặp ở người cao tuổi, phổ biến ở nữ giới hơn nam giới. Bệnh hay gặp ở người trưởng thành, hiếm khi gặp ở trẻ em và vị thành niên. Ở người trẻ thường hay than phiền khó vào giấc ngủ, trong khi ở người trung, cao tuổi thường hay than phiền khó giữ giấc ngủ và hay dậy sớm.

Bệnh rất phổ biến, theo Hội Tâm thần học Mỹ, trong một năm có đến 40% số người lớn than phiền mất ngủ và khoảng 15-25% số người có mất ngủ tiên phát. Hầu hết các trường hợp mất ngủ tiên phát xuất hiện sau khi có yếu tố căng thẳng tâm lý. Nhưng mất ngủ tiên phát lại rất bền vững, khi các yếu tố căng thẳng tâm lý đã được giải quyết thì mất ngủ vẫn không hết.

Tuy nhiên mất ngủ tiên phát là bệnh mạn tính, thường kéo dài vài tháng, thậm chí kéo dài hàng năm. Vì vậy, việc điều trị cũng cần đủ thời gian, tránh dùng các thuốc có thể gây phụ thuộc thuốc.

Các thuốc dùng trong mất ngủ tiên phát
Một số thuốc an thần có thể dùng điều trị mất ngủ như thioridazine, olanzapine. Các thuốc này có thể dùng kéo dài mà không sợ gây nghiện. Thuốc chống trầm cảm an dịu như amitriptiline (elavil), mirtazapine (remeron), doxepine, ludiomine dùng điều trị mất ngủ tiên phát rất tốt.

Ngoài ra, các thuốc này còn có tác dụng điều trị lo âu, trầm cảm - các nguyên nhân rất phổ biến gây mất ngủ. Vì vậy, dùng các loại thuốc này rất tiện lợi, cho kết quả tốt cả khi chẩn đoán mất ngủ tiên phát hoặc mất ngủ do trầm cảm, lo âu chưa được rõ ràng. Trong các thuốc này, amitriptiline rẻ tiền và dễ mua nhất, nhưng thuốc có tác dụng phụ nhiều nhất, vì vậy khi sử dụng phải tăng liều từ từ để bệnh nhân quen dần.

Remeron hiện nay cũng rất sẵn trên thị trường, thuốc có tác dụng tốt như amitriptiline, nhưng rất ít tác dụng phụ, thuận tiện cho bệnh nhân, đặc biệt là người cao tuổi, tuy nhiên giá thuốc còn cao. Một số phác đồ cụ thể:

- Phác đồ 1: Elavil 25mg, uống tuần 1 mỗi tối 1 viên, tuần 2 mỗi tối 2 viên, tuần 3 uống sáng 1 viên, tối 2 viên, từ tuần thứ 4 trở đi uống sáng 2 viên, tối 2 viên. Cần uống thuốc từ 6-12 tháng.

- Phác đồ 2: Remeron 30mg, uống nửa viên, nếu cần có thể dùng 1 viên, uống buổi tối trước khi đi ngủ. Cần uống thuốc 6-12 tháng.

- Phác đồ 3: Olanzapine 10mg uống mỗi tối nửa viên, nếu cần uống 1 viên. Cần dùng thuốc 6-12 tháng. Có thể thay olanzapine bằng thioridazine 100mg.

Tóm lại, rối loạn giấc ngủ tiên phát là một bệnh rất phổ biến, mạn tính, điều trị tương đối phức tạp. Vì vậy bệnh nhân cần được tư vấn và điều trị cẩn thận bởi bác sĩ chuyên khoa tâm thần.



Theo Sức khỏe & đời sống, TTO