Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng

Những bài thuốc quý từ quả hồng

Trong quả hồng còn có axit citric, 4,76% đường khử và 5,9% đường tự do, nên hồng chín ăn ngọt. Lá và quả hồng xanh có flavonoid có tác dụng ức chế men chuyển angiotensin có tác dụng chữa cao huyết áp khá tốt. Tai quả hồng (thị đế) có tác dụng chống viêm khá rõ rệt, tai hồng khô dùng chữa nấc rất hiệu quả. Vỏ thân hoặc vỏ rễ cây hồng có tác dụng chữa băng huyết, đại tiểu tiện ra máu khá hiệu nghiệm. 



Từ quả hồng chế biến thành mứt hồng ăn ngon và còn là một vị thuốc có nhiều ứng dụng trong điều trị bệnh ho, đi lỏng, cầm máu... Trong quá trình chế biến mứt hồng, chất đường trong quả hồng chín phơi khô gọi là thị sương dùng chữa đau bụng, họng khô, ho...

Dưới đây là một số bài thuốc chữa bệnh có dùng hồng: 

1. Chữa nấc, đầy bụng, khó tiêu 
Tai hồng 8g, đinh hương 8g, gừng tươi 3 lát, sắc uống, chia nhiều lần uống trong ngày. Nếu chỉ để chữa nấc không, chỉ cần sắc riêng 8-10 chiếc tai hồng, chia uống nhiều lần trong ngày.

2. Chữa đái dầm, đái nhiều về đêm
Tai hồng khô 10 cái, sắc với 300ml nước đun còn 50ml, uống 1 lần vào buổi tối trước khi đi ngủ.

3. Chữa đi ngoài ra máu, táo bón 
Quả hồng khô 1 quả, mộc nhĩ 8g, hai thứ đều thái nhỏ, cho 300 ml nước vào nấu chín nhừ, ăn mỗi ngày 1 lần vào buổi sáng.

4. Chữa tiêu chảy, cao huyết áp 
Hồng xanh 2 quả thái nhỏ cho vào máy xay sinh tố, thêm 150ml nước, xay nhỏ gạn nước uống ngày 1-2 lần. Trường hợp không có máy xay sinh tố, đem hồng giã nát, cho thêm nước vào vắt lấy nước uống, bỏ bã.

5. Chữa nôn mửa, lo nghĩ, phiền uất 
Tai hồng 7 cái, hồ tiêu 7 hạt, hoắc hương 4g, sa nhân 4g, tỏi 3 nhánh, hành 2 củ, gừng tươi 7 lát. Tất cả cho vào ấm đất hoặc xoong nhôm, thêm 400ml nước sắc còn 100ml, chia làm 2 lần uống trong ngày.

6. Chữa tử cung chảy máu 
Hồng khô 3 quả, gừng tươi một nhánh (50g), cả hai thứ thái lát mỏng, cho vào chảo rang khô đem nghiền nhỏ thành bột, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 15g với nước cơm.

7. Chữa cao huyết áp 
Hồng khô 5 quả cho 400ml nước vào sắc lỏng, chắt lấy 100ml nước thuốc chia uống 2 lần trong ngày. Uống liên tục 15-20 ngày.

8. Ho có nhiều đờm 
Hồng khô 3 quả, cho 300ml nước sắc còn 100ml lấy ra cho thêm 50ml mật ong, chia uống 2 lần trong ngày.

Đang mùa hồng, mỗi nhà nên làm ít hồng khô để dành, khi ăn hồng nhớ lấy lại tai hồng, đem phơi khô, cho vào lọ bảo quản phòng khi cần dùng tới.


Theo Văn hóa nghệ thuật ăn uống

Những bệnh phát sinh do thừa vitamin

Vitamin là những chất cần thiết cho sự sống của con người nhưng cơ thể không tự tổng hợp được mà phải đưa từ bên ngoài vào. 
Tình trạng thiếu vitamin (do thiếu nguồn cung cấp hay giảm hấp thu) thường biểu hiện dưới dạng các bệnh lý khác nhau, thường phải điều trị bằng vitamin. Tuy nhiên, việc bổ sung quá nhiều vitamin hoặc dùng nó khi không thiếu vitamin có thể gây thừa chất này, nhiều khi rất nguy hiểm.



Vitamin A: Có vai trò tạo sắc tố võng mạc, biệt hóa tế bào biểu mô, tham gia tái tạo xương, được chỉ định điều trị những bệnh về mắt, xương, da...

Liều cao có thể gây ngộ độc vitamin A; ở trẻ em có thể làm tăng áp lực nội sọ, đau xương, viêm da, viêm teo thần kinh thị giác, mù. Đối với người lớn, thừa vitamin A có thể gây đau đầu, rối loạn kinh nguyệt, suy gan, tăng canxi máu, rối loạn tâm thần, gây quái thai ở phụ nữ có thai.

Vitamin B6: Là coenzym trong chuyển hóa acid amin, tham gia vào quá trình tạo máu, tái tạo tổ chức biểu mô; đồng thời tham gia chuyển hóa trytophan thành serotonin, một chất quan trọng của hệ thần kinh.

Việc dùng liều cao hoặc dùng kéo dài nhiều tháng có thể gây thừa vitamin B6, biểu hiện bằng viêm đa dây thần kinh, giảm sút trí nhớ, tăng men gan...

Vitamin B12: Là coenzym tham gia tổng hợp acid nucleic và myelin nên có vai trò trong cấu tạo và hoạt động của hệ thần kinh, tạo máu, tái tạo nhu mô gan.

Thừa vitamin B12 (thường do tiêm liều cao), có thể gây hoạt hóa hệ đông máu làm tăng đông, gây tắc mạch.

Vitamin C: Có vai trò tham gia cấu trúc của tổ chức liên kết, tổng hợp catecholamin, trung hòa các gốc tự do, làm tăng sức đề kháng của cơ thể.

Việc dùng liều cao có thể gây tan máu, nhất là ở những người thiếu men glucose 6 photphat dehydrogenase, người đang có tăng sắt huyết thanh. Tình trạng trên cũng có thể làm tăng tạo gốc tự do, mất ngủ, kích động, sỏi thận, giảm tiết insulin, giảm thời gian đông máu...

Vitamin D: Có vai trò trong tái tạo xương, làm tăng hấp thu canxi từ ruột và điều hòa mức canxi máu.

Thừa vitamin D sẽ làm tăng canxi máu; ở trẻ dưới 1 tuổi có thể gây kích thích, co giật, xương hóa sụn sớm. Với người lớn, liều cao có thể gây chán ăn, nôn, tiêu chảy, rối loạn tâm thần, thậm chí có thể tử vong.

Vitamin E: Tham gia ngăn cản quá trình ôxy hóa lipid ở màng tế bào, chống ôxy hóa.

Thừa vitamin E có thể gây rối loạn tiêu hóa, đau đầu, rối loạn thị giác, ức chế chức năng sinh dục, gây tổn thương thận.

Nhiều vitamin khác khi thừa cũng có thể gây bệnh, nguy hiểm cho sức khỏe. Vì vậy, cần quan niệm rằng vitamin cũng như các loại thuốc khác, nếu không có chỉ định thì không dùng. Khi sử dụng vitamin, cần tránh gây trạng thái thừa.

Khi không thiếu vitamin thì không cần bổ sung bằng thuốc mà có thể sử dụng vitamin dưới dạng thức ăn. Nếu dùng thuốc, nên chọn đường uống; trừ khi ống tiêu hóa không hấp thu được vitamin hoặc phải nuôi dưỡng ngoài đường tiêu hóa. Liều lượng vitamin phải tùy theo tình trạng của mỗi người (trẻ em, người lớn, phụ nữ có thai, trạng thái bệnh lý...). Không nên dùng phức hợp thuốc nhiều loại vitamin tan trong dầu, vì dễ gây tình trạng tích lũy vitamin.

Theo Sức khỏe & đời sống

Bệnh lao thận và những điều cần biết

Lao thận thường gặp ở người 20-40 tuổi, nam mắc nhiều hơn nữ. Từ thận, lao có thể lan sang các bộ phận sinh dục lân cận như túi tinh, mào tinh hoàn, ống dẫn trứng; hay sang các cơ quan khác như màng não. 



Lao thận là tổn thương nhu mô một trong hai quả thận. Bệnh xuất hiện do vi khuẩn lao từ phổi theo đường máu (hay từ ruột, xương, hạch bạch huyết) tới thận, gây lao thận.

Mới đầu, vi khuẩn làm tổn thương nhu mô thận, sau vào đài, bể thận. Từ nơi này, trực khuẩn lao lan ra hệ tiết niệu và sinh dục. Bệnh khởi đầu yên lặng nên ở giai đoạn sớm, chưa thể biết tổn thương lao đã vào tới đài, bể thận. Ở thời kỳ toàn phát sẽ có các triệu chứng như luôn tiểu rắt, nhiều về đêm; mỗi lần chỉ đi vài giọt, không thành tia... mặc dù người bệnh cố hết sức rặn. Người bệnh tiểu buốt vào cuối bãi. Buốt lan ra vùng tiết niệu, lan lên trên và lan xuống dưới hai đùi...
Người bệnh thường xuyên tiểu đục và tiểu có máu.

Chụp phim thận có thuốc cản quang cho thấy sự thay đổi hình dáng của bể, đài thận, niệu quản và bàng quang. Bể thận hẹp, phình, cắt cụt, hình cánh hoa hay giãn ra. Niệu quản chỗ hẹp, chỗ giãn. Bàng quang dung tích bé và thành dày. Soi bàng quang cho thấy niêm mạc phù, nhiều cột cơ dày; có những hạt to bằng đầu đinh trắng hay vàng; những ổ loét lao.

Bệnh diễn biến rất lâu, từ bị lao một thận chuyển sang lao hai thận. Thận bị ứ nước do hẹp, tắc niệu quản, bể thận. Bàng quang teo, có ỏi tiết niệu. Lao lan sang các bộ phận sinh dục lân cận như túi tinh, mào tinh hoàn, ống dẫn trứng hay các cơ quan khác như màng não.

Để phòng ngừa lao thận, phải phát hiện, điều trị khỏi dứt điểm lao phổi. Người bị lao thận cần được nghỉ ngơi, tránh lao động nặng, ăn uống đầy đủ các dưỡng chất và điều trị thuốc đúng theo chỉ định của bác sĩ.

BS. Hoàng Anh, Sức Khỏe & Đời Sống

Hỗ trợ điều trị HIV bằng y học cổ truyền

Các triệu chứng của bệnh AIDS rất giống với dấu hiệu bị hư lao trong y học cổ truyền. Từ thực tế này, Bệnh viện Y học cổ truyền trung ương đang nghiên cứu thử nghiệm giai đoạn 2 một số bài thuốc Đông y điều trị hỗ trợ HIV/AIDS. 



Theo bác sĩ Chu Quốc Trường, Bệnh viện Y học dân tộc cổ truyền Trung ương, hư lao trong Đông y là tình trạng suy giảm miễn dịch, giảm sức đề kháng, làm suy nhược cơ thể do những nguyên nhân đặc hiệu. Căn cứ vào từng giai đoạn bệnh mà bác sĩ có một bài thuốc tương ứng để hỗ trợ cơ thể chống lại bệnh. Và cách điều trị hỗ trợ cho bệnh nhân AIDS cũng vậy.

Giai đoạn đầu, tà khí mới xâm phạm vào cơ thể, chính khí vẫn còn chiếm ưu thế. Nguyên tắc điều trị cần thiết lúc này là đẩy tà khí ra ngoài. Bài thuốc được dùng có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, bao gồm: kim ngân, hoàng cầm, bồ công anh, ngư tinh thảo, xuyên tâm liên kết hợp nhằm dưỡng âm, nhuận táo, ích khí. Đối với bệnh nhân AIDS, bài thuốc này có tác dụng ngăn chặn sự lan rộng của virus trong cơ thể, giúp kéo dài thời gian khỏe mạnh.

Khi bệnh bước vào giai đoạn hai, tà khí đã chiếm thế thượng phong, còn chính khí đã hư suy trong cơ thể. Lúc này, quan điểm của Đông y là phù chính, tức ra sức nâng cao sức đề kháng của cơ thể; và khu tà, tức hạn chế, ngăn chặn sự xâm lấn của mầm bệnh. Bài thuốc này gồm các vị sau: hoàng kỳ, đảng sâm, hoài sơn, kỷ tử, bạch truật, ý dĩ. Thuốc giúp bệnh nhân làm chậm khả năng tàn phá cơ thể của virus HIV.

Khi khí huyết và âm dương bị tổn thương nặng nề thì bệnh đã vào giai đoạn cuối. Phải dùng phương thuốc ôn dương ích âm bao gồm: thổ ty tử, ngũ vị sơn thù, thục địa, đỗ trọng, dân dương hoắc để giúp bệnh nhân vượt qua sự hành hạ, đau đớn và kéo dài sự sống. Bệnh nhân HIV thường bị ứ huyết nên Đông y còn dùng đan sâm, đương quy, khương hoàng, xích thược, tô mộc để máu được lưu thông tốt hơn.

Theo bác sĩ Trường, mặc dù các bài thuốc chỉ mới ở giai đoạn 2 của quá trình nghiên cứu nhưng chúng có triển vọng rất tốt. Chúng đang được điều trị thử nghiệm trên 38 bệnh nhân AIDS tại khoa Nhiễm của Bệnh viện Đống Đa Hà Nội. Kết quả cho thấy thuốc giúp nâng cao sức đề kháng, tăng cường khả năng miễn dịch cho cơ thể, bằng chứng là chỉ số miễn dịch TCD4, TCD8 đều tăng lên. Các dấu hiệu của bệnh như: gầy sút, chán ăn, mụn nhọt lỡ loét... đều cải thiện so với người không được điều trị. Sắp tới, các bài thuốc trên sẽ được đưa vào thử nghiệm điều trị cho bệnh nhân AIDS tại bệnh viện Bệnh nhiệt đới TP HCM.

Áp dụng y học cổ truyền là một xu hướng mới đầy triển vọng trong điều trị hỗ trợ bệnh AIDS. Nhiều nơi trên thế giới cũng đã nghiên cứu, thử nghiệm theo cách này và kết quả cũng rất khả quan. Chẳng hạn, học viện Trung y Giang Tô, Hong Kong đã tìm ra trên 32 loài thảo dược có tác dụng ức chế HIV. Tanzania đã dùng nước sắc của đơn thuốc có nhiều vị ( ESL) điều trị cho 256 ca HIV/AIDS liên tục trong 8 năm. Kết quả là gần 90% bệnh nhân được cải thiện các triệu chứng lâm sàng, chất lượng cuộc sống được nâng lên. Tại Trung Quốc, chế phẩm chiết xuất từ cam thảo được áp dụng cho 60 bệnh nhân AIDS giai đoạn cuối có hệ số miễn dịch TCD4 rất thấp. Sau 150 ngày điều trị, khả năng miễn dịch tăng hơn 60%, bác sĩ Trường cho biết thêm.

Tuy nhiên, để được Bộ Y tế công nhận và cho phép sử dụng vào điều trị hỗ trợ bệnh AIDS một cách rộng rãi, các bài thuốc trên còn phải trải qua nhiều giai đoạn nghiên cứu nữa.

Mỹ Lan

Theo VnExpress

Cho con bú giúp phòng tránh bệnh tiểu đường

Những phụ nữ cho con bú lâu khó mắc bệnh tiểu đường type 2 hơn so với người không nuôi con bằng sữa mẹ hoặc cho bú trong thời gian ngắn.



Rất nhiều nghiên cứu đã khẳng định việc cho con bú có ảnh hưởng lên sự trao đổi chất của người mẹ. Điều này đã gợi ý cho tiến sĩ Alison M. Stuebe, Đại học Harvard tìm hiểu về mối liên hệ giữa căn bệnh tiểu đường và việc cho bú. "Sự trao đổi chất, việc cho con bú và hoạt động sinh sản, tất cả đều liên quan mật thiết với nhau một cách thú vị", Stuebe nhận định.

Stuebe và cộng sự phát hiện ra trong vòng 15 năm đầu tiên sau lần sinh đẻ gần nhất, mỗi năm cho con bú lại tương ứng với sự giảm thiểu 15% nguy cơ tiểu đường ở người mẹ. Kết quả này không thay đổi kể cả khi đã tính đến các yếu tố như chế độ dinh dưỡng, luyện tập, hút thuốc và việc uống viên đa sinh tố. Sau 15 năm này, việc cho bú không mang lại lợi ích đáng kể, song "dường như 15 năm đầu tiên cũng đủ mang lại sự phòng bệnh lâu dài", nhóm kết luận. Đây là kết quả phân tích dữ liệu từ hai nhóm phụ nữ từng sinh đẻ: nhóm thứ nhất gồm khoảng 83.000 người và nhóm thứ hai gần 73.000 người và trẻ hơn.

"Nói một cách nào đó, quá trình mang thai chính là một trạng thái tiền tiểu đường, vì khi đó cơ thể buộc phải trở nên kháng insulin để đảm bảo rằng thai nhi được nhận đủ đường. Sau đó, thời kỳ cho con bú lại là một trạng thái chống tiểu đường", Stuebe giải thích. Điều đó cho thấy, việc cho con bú giúp cơ thể trở lại bình thường sau quá trình mang thai. Nếu không cho bú trong một thời gian dài, nguy cơ mắc bệnh tiểu đường vẫn còn đó và sẽ gia tăng.

Mỹ Linh (theo Reuters)
Theo VnExpress