Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng

Chữa bệnh bằng nước ép bắp cải

Theo Đông y, cải bắp vị ngọt tính hàn, không độc, có tác dụng hoạt huyết, chỉ huyết, lợi tiểu, thanh phế, thanh nhiệt, trừ đàm thấp, giải độc, sinh tân, chỉ khát, mát dạ dày, bổ tỳ vị. Người táo bón, tiểu ít, không ăn bắp cải sống hoặc dưa bắp cải muối mà phải nấu chín.

Cải bắp còn gọi là bắp cải. Tên khoa học Bras-sica oleracea L.var.capitala L. Thành phần hóa học trong 100g chứa: lipid 0,8g, chất xơ 1,7g, dẫn xuất phi protein 4,9g, khoáng toàn phần 2,4g.

Về mặt dinh dưỡng, trong 100g cải bắp cung cấp cho cơ thể 50calo, nhiều muối khoáng nhất là canxi, photpho, kali, sắt. Lượng vitamin C trong bắp cải chỉ thua cà chua, nhưng nhiều gấp 4,5 lần so với cà rốt, 3,6 lần so với khoai tây, hành tây.

Trong bắp cải, vitamin C kết hợp sẵn với vitamin P thành phức hợp PC và vitamin C được vitamin P bảo vệ khỏi bị oxy hóa để cho giá trị sinh học cao hơn thuốc vitamin C.

Cải bắp được dùng làm thuốc chữa bệnh từ thời thượng cổ ở châu Âu. Người ta đã gọi nó là “thuốc của người nghèo”. Sau đây là một số tác dụng chữa bệnh từ bắp cải.
Đối với bệnh loét dạ dày tá tràng: nước ép bắp cải giúp chóng làm lành vết loét, thành sẹo, nhất là loét dạ dày, ruột, loét miệng nối. Cách dùng: Mỗi sáng sớm và trước khi đi ngủ uống 1/2 cốc nước bắp cải ép.

Từ thập niên 40, các thầy thuốc Hoa Kỳ đã công nhận tác dụng chữa loét dạ dày của bắp cải và sau đó được kiểm chứng trên thực nghiệm. Kết quả cho thấy phần lớn người bị loét dạ dày hành tá tràng đã uống 1/2 lít nước bắp cải mỗi ngày trong 3 tuần.

Qua nội soi, các chuyên gia Ấn Độ đã chứng minh được sự hình thành một lớp màng nhày có 2 chức năng vừa che chở, vừa tái tạo niêm mạc dạ dày dưới tác dụng của bắp cải. Ngoài ra, họ đã xác định được một hoạt chất có tác dụng bảo vệ niêm mạc dạ dày. Hoạt chất này chỉ có trong bắp cải tươi và hàm lượng cao khi còn tươi xanh và thu hái vào mùa xuân hay mùa hè, hầu như mất tác dụng vào mùa đông...

Theo kinh nghiệm dân gian, tác dụng nước ép bắp cải sẽ được gia tăng gấp bội nếu dùng hòa chung với nước ép rau cần tây. Trong nhân dân thường muối dưa bắp cải với rau cần ta cũng là một kinh nghiệm tốt.

Tác dụng của bắp cải đối với bệnh ung thư: Một số công trình nghiên cứu của Viện đại học New York cho thấy ăn bắp cải thường xuyên giúp ít bị ung thư đường tiêu hóa.

Tất cả các loại cải đều có tác dụng phòng chống ung thư, nhưng rõ rệt nhất được xác định là bắp cải. Nếu ăn 1 tuần 1 lần bắp cải giảm 70% xác suất bị ung thư ruột. Nếu 2 tuần 1 lần sẽ giảm được 40%.

Công trình nghiên cứu tác dụng chống ung thư của bắp cải do GS. Wattemberg ở Viện đại học Minnesota cũng cho thấy: Chiết xuất từ bắp cải được một nhóm hoạt chất là indol. Qua thực nghiệm trên súc vật cho thấy chất này làm giảm tỷ lệ ung thư vú chỉ còn 1,5 so với lô đối chứng. Liều rất thấp cũng có thể bảo vệ 1/2 so với súc vật thí nghiệm.
 
Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Thời điểm cần bổ sung vitamin cho bé?

Phần lớn các vitamin hoạt động như một phức hợp hoạt hóa các men tham gia vào nhiều phản ứng trong cơ thể.

Một số như vitamin E, bêta-caroten là những chất cần thiết cho sự sống, thiếu chúng sẽ ảnh hưởng đến quá trình ôxy hóa, giảm sức đề kháng, cơ thể sẽ dễ viêm nhiễm và dị ứng.
Nhiều loại vitamin có đa tác dụng phức tạp hơn, nhất là nếu chúng tham gia cấu tạo nên hormon (vitamin A, vitamin D...).

Ngoài tham gia vào nhiều chức năng, vitamin còn không thể thiếu cho các tình trạng sau:
- Thụ thai và phát triển của bào thai: thiếu chúng có thể gây vô sinh và biến dạng bào thai.

- Quá trình tăng trưởng và khoáng hóa xương: thiếu chúng đưa đến những vấn đề về tư thế và biến dạng xương.

- Quá trình sản sinh năng lượng: thiếu vitamin gây nên thiếu máu, chậm liền sẹo, biến đổi da và lông tóc, móng tay.

- Ảnh hưởng đến hệ miễn dịch: nếu thiếu vitamin dễ bị mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

- Tổng hợp các chất vận chuyển trung gian của hệ thần kinh: thiếu vitamin sẽ làm giảm mức độ tập trung về trí nhớ đồng thời kém chống đỡ với stress.

- Quá trình đào thải và trung hòa các chất độc: thiếu vitamin sẽ làm tăng độ nhạy cảm với các chất độc, tăng quá trình lão hóa, góp phần làm xuất hiện các bệnh tim mạch, bệnh ung thư...

Vitamin được chia làm hai nhóm:
Vitamin tan trong nước: hầu hết các vitamin nhóm B (B1, B2, B6, B12...), vitamin PP và vitamin C là vitamin tan trong nước. Vitamin thuộc nhóm này không tích lũy trong cơ thể, nếu ăn thừa sẽ bị đào thải ra ngoài theo nước tiểu.

Vitamin tan trong dầu: gồm các vitamin A, D, E, K. Các vitamin này có nhiều chức năng quan trọng trong cơ thể, nhưng khi dùng với liều cao sẽ tích lũy tại mô mỡ và tế bào gan, gây ngộ độc.

Khi nào người ta có nguy cơ bị thiếu vitamin?
Từ lâu các nhà dinh dưỡng đã cho rằng, một người khỏe mạnh với một chế độ ăn đủ dinh dưỡng, cân đối và luôn thay đổi sẽ không bị thiếu vitamin. Những trường hợp thiếu vitamin trầm trọng thường ít gặp và chỉ là một bộ phận nhỏ trong dân chúng.

Một số trường hợp có nguy cơ cao bị thiếu vitamin
Thường trẻ sơ sinh đẻ non tháng hay bị thiếu vitamin A, D, E, K (vì những vitamin này tan trong dầu nên khó đi qua nhau thai). Những người già khả năng hấp thu kém, dễ bị thiếu vitamin B9 và B12, dẫn đến giảm trí nhớ và lú lẫn. Những người nghiện thuốc lá, rượu; những người đang điều trị hóa trị liệu, xạ trị liệu, hoặc những người bị bệnh mạn tính (tiểu đường, suy thận, AIDS...) thường bị thiếu vitamin.

Thiếu vitamin do cung cấp không đủ qua thức ăn.
Những thực phẩm tinh chế (bánh mì trắng, bột tinh chế, sữa tách chất béo...) bị mất nhiều vitamin.

Thực phẩm đóng hộp: do những xử lý chiếu tia để khử khuẩn làm mất một phần vitamin.
Chuẩn bị và chế biến thực phẩm không đúng cách: ngâm lâu trong nước, nấu quá nhiều nước làm vitamin hao hụt nhiều.
Chế độ ăn không có chất xơ (áp dụng cho bệnh nhân viêm đại tràng) thường gây thiếu vitamin B9, vitamin C.
Chế độ ăn chay: Thức ăn không có sản phẩm nguồn gốc động vật gây thiếu vitamin B12, vitamin D.
Chế độ ăn giảm béo làm giảm lượng muối khoáng và vitamin đưa vào cơ thể từ thức ăn.
Thiếu vitamin do quá trình hấp thu và đồng hóa vitamin bị rối loạn.
Các bệnh ruột mạn tính làm giảm hoặc không hấp thu được một số vitamin.
Do bị đối kháng bởi một số thuốc: Một vài loại thuốc dùng trong thời gian dài có thể đưa đến thiếu vitamin như: corticoid, thuốc chống lại tính axit của dạ dày, thuốc kháng sinh, thuốc hướng tâm thần, thuốc chống ung thư...

Thiếu vitamin do tăng nhu cầu của cơ thể.
Trong một vài điều kiện, nhu cầu vitamin tăng, cơ thể sẽ có nguy cơ bị thiếu nếu không được tăng thêm nguồn cung cấp. Những trường hợp đó là: phụ nữ có thai, nuôi con bú, những vận động viên thể thao, tình trạng stress, khí hậu khắc nghiệt, nghiện rượu, môi trường ô nhiễm...

Khẩu phần ăn hằng ngày là nguồn cung cấp chính các vitamin cho cơ thể. Khi cơ thể thiếu hoặc thừa vitamin đều có hại cho sức khỏe, thí dụ khi thiếu vitamin PP gây bệnh Pellagra làm kém trí nhớ, ù tai, ngủ kém, loét miệng, khô da, rối loạn tiêu hóa... nhưng khi thừa làm tăng khả năng đông máu gây tắc mạch, co thắt động mạch, tăng huyết áp...

Khi thiếu vitamin C làm cho quá trình tổng hợp collagen bị khiếm khuyết, gây chậm liền vết thương, vỡ thành mao mạch, răng và xương không tốt, nhưng khi thừa vitamin C gây toan máu, làm gia tăng nguy cơ bị sỏi thận.

Thiếu vitamin B1 mắc bệnh Beriberi với những dấu hiệu tổn thương thần kinh, thừa vitamin B1 gây dị ứng, choáng. Thiếu vitamin A gây suy giảm miễn dịch, tăng mắc các bệnh nhiễm khuẩn đặc biệt là viêm nhiễm đường hô hấp và tiêu hóa; gây tổn thương mắt (bệnh khô mắt) nếu nặng có thể dẫn đến mù lòa, thừa vitamin A gây đau đầu, mệt mỏi, buồn nôn, rụng tóc, khô da, rối loạn kinh nguyệt...

Thiếu vitamin D gây bệnh còi xương ở trẻ nhỏ và góp phần gây bệnh nhuyễn xương ở người lớn, nhưng khi dùng quá liều sẽ làm tăng canxi máu có thể dẫn tới hậu quả canxi hóa các mô của cơ thể bao gồm cả mô tim, phổi, thận và gây đau khớp, co giật, sỏi thận...

Như vậy, một chế độ ăn đa dạng, cân đối hợp lý hằng ngày là có thể cung cấp đủ lượng vitamin cho cơ thể. Vitamin có chất lượng tốt hơn khi nó có nguồn gốc từ các thực phẩm tự nhiên. Không nhất thiết phải bổ sung thường xuyên vitamin bằng con đường uống hay tiêm. Tuy nhiên, trong những trường hợp thật cần thiết cần có sự chỉ dẫn của thầy thuốc là nên bổ sung vitamin nào theo từng loại bệnh, lứa tuổi... mới bảo đảm hiệu quả và sự an toàn.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Chữa ăn khó tiêu bằng... sỏi mật của động vật

Hình dáng cẩu bảo trông giống như những viên đá trắng hơi phơn phớt xanh, có nhiều lớp xếp thành. Đây là loại sỏi kết lại của những con chó bị bị bệnh, kích thước 0,5-1 cm. Cẩu bảo vị mặn, tính ôn, vào kinh vị (dạ dày), có tác dụng giáng vị khí, khai thông đờm kết tụ.

Hình ảnh minh họa

Cẩu bảo chủ trị chữa chứng hay nôn sau ăn, nghẹn, khó tiêu. Liều dùng: 0,6-1,5 g. Người ăn vào bị nghẹn không nuốt được do huyết dịch suy kém thì không nên dùng.

Bài thuốc: Dùng 60 g uy linh tiên, trộn với 10 g muối giã nát hòa với một chén nước, gạn lọc bỏ bã đi rồi lấy nước uống mỗi ngày ba lần với 0,3 g cẩu bảo tán nhỏ, vài ba ngày sẽ khỏi.

Không chỉ chó mà các động vật khác như bò, ngựa cũng cung cấp thuốc chữa bệnh từ sỏi kết trong cơ thể chúng:

Sỏi mật bò
Đông y gọi là ngưu hoàng, tây ngưu hoàng, tây hoàng; phần lớn hình trứng, có thể hình cầu, hình tròn, vuông hoặc hình tam giác, đường kính 0,6-3,3 cm. Mặt ngoài màu vàng kim hay vàng nâu, đậm nhạt không đều, trơn mịn, hơi bóng, có khi bên ngoài phủ một lớp màng mỏng màu đen bóng, có hòn mặt ngoài có vằn nứt, cũng có hòn mặt nhám không nhẵn. Ngưu hoàng thể nhẹ, chất xốp, giòn, tay ấn dễ dập, mặt vỡ màu vàng nâu hay màu vàng kim, đậm nhạt không đều, bóng láng, khoảng cách đều nhau thành lớp vân tròn sắp xếp đều. Mùi thơm thanh nhẹ, vị trước hơi đắng sau ngọt, cho vào mồm hương thơm thanh mát, tan dần, nuốt không dính răng. Ngưu hoàng mặt ngoài mịn bóng, trơn, không có màu trắng là loại tốt.

Ngưu hoàng có tác dụng thanh tâm, giải nhiệt, lợi đàm, trị co giật, khai khiếu, giải độc. Chủ trị: Các chứng nóng sốt, phát cuồng, mê man, điên giản, co giật; trẻ em bị chứng kinh phong co giật (sài giật), cổ họng, miệng lưỡi sinh mụn, ung nhọt, đinh độc.
Liều dùng: 0,2-0,4 g dưới dạng thuốc hoàn, thuốc tán. Dùng ngoài lượng vừa đủ.

Bài thuốc: Trân châu, ngưu hoàng đều 30 g tán mịn trộn đều, trị loét sưng đau cổ họng (dùng đắp chỗ đau).

Sỏi ruột ngựa
Mã bảo là tên gọi loại sỏi kết lại trong dạ dày hoặc ruột con ngựa. Khi giết ngựa, moi trong dạ dày, ruột thấy có sỏi thì lấy ra sửa sạch, phơi khô chỗ mát là được.

Mã bảo phần nhiều hình cầu, hình trứng hay hình tròn dẹt to nhỏ không đều. Có hòn nặng 2-2,5 kg, có hòn một vài trăm gam. Đường kính 6-20 cm. Mặt ngoài màu xanh trứng hoặc màu trắng gio, nhẵn, thường có vân nhỏ hỗn loạn hoặc lồi lõm, chất cứng, nặng. Mặt vỡ màu trắng gio nhưng có lớp vân đồng tâm mỗi lớp dày 0,3-1 cm, đồng thời có nhiều vân nhỏ chi chít màu đen gio, nháp, không phẳng, không mùi, vị nhạt.

Mã bảo vị ngọt, mặn, hơi đắng, có tác dụng trấn kinh (chống co giật), hóa nhiệt đàm, thanh can, não. Chủ trị: Chữa điên cuồng, kinh giản (động kinh), cầm nôn mửa. Liều dùng: 0,3-0,9 g. Nghiền thành bột cho uống. Nếu tạng can, đảm không có nhiệt tà, nhiệt đàm thì không nên dùng.

DS. Phạm Hinh


Theo Sức Khỏe & Đời Sống, VNE

Tìm ra hợp chất mới có thể chống bệnh ung thư

Các nhà khoa học thuộc Viện ung thư quốc gia Mỹ và Trường đại học Johns Hopkins đã phát hiện một hợp chất mới mang tên CDDO-Im có khả năng chống lại ung thư gan ở động vật.

Hợp chất này kích thích các enzym trong cơ thể loại bỏ các chất độc hại trong các tế bào và tăng khả năng kháng các chất độc gây bệnh ung thư.

Các nhà khoa học cho rằng vì hợp chất CDDO-Im phát huy tác dụng ở liều rất thấp nên có thể được ứng dụng chống bệnh ung thư ở người, đặc biệt có hiệu quả ngăn chặn các bệnh ung thư có nguồn gốc từ các tác nhân viêm nhiễm mạnh như ung thư gan, trực tràng, dạ dày và tuyến tiền liệt.

CDDO-Im có thể cũng có hiệu quả ngăn chặn cao đối với các bệnh hen suyễn, khí thũng và suy thoái thần kinh. Hợp chất này có hiệu quả mạnh hơn 100 lần so với các hóa chất chống ung thư hiện đang được sử dụng và có thể ngăn chặn việc hình thành các u ung thư do can thiệp vào quá trình chống viêm nhiễm của tế bào thông qua kích hoạt Nrf2, loại protein nắm vai trò chủ yếu bảo vệ tế bào chống lại các tác nhân độc hại từ môi trường.

Hợp chất CDDO-Im thuộc về một lớp các chất chống ung thư được gọi là triterpenoids. Chất này được tổng hợp từ axit oleanoic, một chất tự nhiên được tìm thấy trong thảo mộc.

Theo Tuổi Trẻ, News-Medical

Cần theo dõi tình trạng huyết áp ở người lớn

Trong cuộc sống hiện đại, bệnh tăng huyết áp (THA) ngày càng thường gặp hơn tại cộng đồng. Tuy nhiên không ít người bệnh còn băn khoăn về tình trạng huyết áp (HA) của mình: như thế đã thực sự cao hay chưa? Nên kiểm tra lại HA sau bao lâu? Có cần dùng thuốc không? Chế độ sinh hoạt thế nào khi mắc bệnh này?...



Như thế nào là HA bình thường và như thế nào là THA?
HA tối ưu: Khi HA tối đa (hay HA tâm thu) < 120mmHg và HA tối thiểu (hay HA tâm trương) < 80mmHg. Những người có tình trạng HA tối ưu thường ít có nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Tuy nhiên những người có HA thấp không thường xuyên cần được khám, xem xét để xác định nguyên nhân.
HA bình thường: Khi HA tối đa < 130 mmHg và HA tối thiểu < 85mmHg.

HA bình thường cao: Khi HA tối đa từ 130-139mmHg và HA tối thiểu từ 85-89mmHg.

Tăng HA độ 1: Khi HA tối đa từ 140-159mmHg, HA tối thiểu từ 90-99mmHg.

Tăng HA độ 2: Khi HA tối đa từ 160-179mmHg, HA tối thiểu từ 100-109mmHg.

Tăng HA độ 3: Khi HA tối đa > 180mmHg, HA tối thiểu từ > 110mmHg.

Để khẳng định một trường hợp THA, nên đo HA từ 2 lần trở lên rồi lấy chỉ số trung bình và nếu có thể thì dựa vào chỉ số HA ở cả những lần khám sau thì càng chính xác. Khi chỉ số HA tối đa và tối thiểu rơi vào hai độ khác nhau thì độ nào cao hơn sẽ được chọn để tính là độ cao HA. Ví dụ: HA đo được là 160/92mmHg được xếp vào tăng HA độ 2.

Theo dõi chỉ số HA như thế nào?

Dựa trên chỉ số HA đo được ở lần đầu các nhà lâm sàng khuyến nghị một kế hoạch theo dõi chỉ số HA như sau.

HA tối đa < 130mmHg, HA tối thiểu < 85mmHg. Kiểm tra chỉ số HA trong 2 năm.

HA tối đa từ 130-139mmHg, HA tối thiểu từ 85-89mmHg. Kiểm tra chỉ số HA trong 1 năm.

HA tối đa từ 140-159mmHg, HA tối thiểu từ 90-99mmHg. Khẳng định lại tình trạng THA trong 2 tháng.

Huyết áp tối đa từ 160-179mmHg, HA tối thiểu từ 100-109 mmHg. Kiểm tra trong 1 năm. Người bệnh cần được tư vấn, xử trí hoặc đến khám tại các cơ sở y tế trong 1 tháng.

HA tối đa > 180 mmHg, HA tối thiểu >110 mmHg. Người bệnh cần được xử trí ngay hoặc đến khám tại các cơ sở y tế sớm tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng.

Nếu HA tối đa và HA tối thiểu không cùng một mức độ thì kế hoạch theo dõi theo thời gian ngắn nhất. Ví dụ: chỉ số HA đo được là 160/86mmHg thì người bệnh cần được tư vấn, xử trí hoặc đến khám tại các cơ sở y tế trong vòng 1 tháng.

Nếu ở lần theo dõi mà chỉ số HA rơi vào mức nào thì điều chỉnh kế hoạch theo dõi theo mức đó. Ví dụ: ở lần đo đầu tiên chỉ số HA là 130/86mmHg, sau 1 năm kể từ lần đo đầu tiên đi kiểm tra lại HA theo kế hoạch cho thấy chỉ số HA là 140/92 mmHg thì người bệnh cần phải được khẳng định lại có THA trong vòng 2 tháng.

Khi phát hiện được tình trạng THA, người bệnh cần được tư vấn để phát hiện các yếu tố nguy cơ, đồng thời đến các cơ sở y tế khám để xác định các tổn thương do THA gây nên để được tư vấn cũng như cần điều chỉnh lối sống và can thiệp điều trị kịp thời.


Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO