Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sức Khỏe. Hiển thị tất cả bài đăng

Mệt mỏi triền miên - tín hiệu báo nguy từ não

Bận rộn quá mức, sau đó có nhiều người cảm thấy mệt mỏi, dẫn tới hiệu suất làm việc thấp, những sai sót cũng tăng, khiến cảm thấy rất khổ não. Hiện số người bị mệt mỏi mạn tính không ngừng tăng, không chỉ ở người trưởng thành mà cả ở thanh, thiếu nhi. Trong sinh hoạt hằng ngày, khi cảm thấy mệt mỏi mà không thể nghỉ ngơi thì việc tiêu trừ mệt mỏi là rất khó khăn.



Có loại mệt mỏi chữa trị được bằng cách nghỉ ngơi (mệt mỏi khỏe mạnh), có loại dù nghỉ ngơi cũng không chữa trị nổi (mệt mỏi không khỏe mạnh).
Các nghiên cứu cho thấy, chất tạo thành tự mệt mỏi chính là yếu tố hỗ trợ miễn dịch có tên là TGF-b (gene chuyển hóa sinh trưởng). Ở người bình thường, khi lao động thì TGF-b tăng và khi ngừng lao động thì sự tạo ra TGF-b sẽ giảm đi, mệt mỏi cũng bị tiêu trừ. Nhưng ở người mệt mỏi mạn tính thì ngay cả khi an tĩnh, lượng TGF-b cũng không giảm.

TGF-b là chất truyền tin “có ngoại vật xâm nhập” tế bào miễn dịch. Khi chúng ta bị áp lực tâm lý gây phiền não hoặc nhiễm virus cảm, tác dụng của tế bào miễn dịch sẽ giảm, TGF-b cứ liên tiếp phóng dịch ra quá nhiều khiến việc hợp thành GABA - chất truyền thông tin giữa các tế bào thần kinh - trở nên khó khăn. Não không thể truyền tin tốt, gây giảm sức chú ý, mệt mỏi. Ở người bị mệt mỏi mạn tính, các bộ phận não bị co lại. Nói tóm lại, mệt mỏi mạn tính là có sự biến hóa ở hệ thống miễn dịch, có phát sinh dị thường trong não, là tín hiệu báo nguy hiểm.

Gần đây, để trị chứng mệt mỏi mạn tính, các bác sĩ sử dụng thuốc SSRI (có tác dụng làm tăng số lượng huyết thanh tố). SSRI có hiệu quả với 40% người bệnh bị chứng mệt mỏi mạn tính tổng hợp. Một phương pháp khác là dùng Đông dược đề cao khả năng miễn dịch.

Việc tiêu trừ mệt mỏi cũng còn đang được nghiên cứu. Các loại “nước uống dinh dưỡng” được quảng cáo là chữa trị mệt mỏi trên thị trường là không đáng tin vì cơ chế gây mệt mỏi vẫn đang trong giai đoạn tìm tòi. Tuy vậy, theo các nghiên cứu ở Nhật Bản, các chất chống ôxy hóa như vitamin C hoặc acid limonic, một số acid amin cũng có hiệu quả tiêu trừ mệt mỏi. Cách đi tản bộ ngắm cảnh đẹp cho thư thái cũng là một cách tiêu trừ mệt mỏi đơn giản mà rất tốt.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, VNE

Phát hiện và chữa trị u xơ vòm mũi họng

Trước kia người bị u xơ vòm mũi họng được mô tả với bộ mặt khủng khiếp như nhãn cầu lồi ra khỏi hốc mắt, mũi nở rộng, má phồng lổn nhổn như đá cuội. Ngày nay chúng ta không còn thấy mức độ nặng nề như thế nữa vì bệnh đã được phát hiện sớm hơn.

U xơ vòm mũi họng là một bệnh lý phổ biến ở tuổi dậy thì, thường gặp ở nam giới, tuổi từ 15-25 ở nông thôn. Người ta cho rằng sự phát triển của u xơ vòm mũi họng liên quan tới nội tiết ở giai đoạn dậy thì.

Khối u xơ bám sát vào nền sọ vùng họng mũi và lách vào các cấu trúc lân cận tạo ra các chân bám vào vùng bướm sàng, chu vi cửa mũi sau, cánh trong chân bướm. Khối u chắc, có nhiều thùy, có cuống. Kích thước to nhỏ tùy thuộc vào thời gian xuất hiện bệnh đến lúc được phẫu thuật lấy bỏ khối u. Lấy khối u đem quan sát dưới kính hiển vi sẽ thấy trong khối u có rất nhiều mạch máu hoặc những hồ máu nằm rải rác cùng tổ chức xơ và hình thành một mạng lưới dưới niêm mạc bao bọc toàn bộ khối u.

Diễn biến của bệnh
Bệnh diễn biến âm thầm với biểu hiện ngạt tắc mũi một bên ngày càng tăng, giai đoạn muộn ngạt tắc mũi cả hai bên. Chảy nước mũi liên tục, nhiều lên dần với hai lỗ mũi ướt và đầy chất nhầy. Thỉnh thoảng chảy máu cam, lúc đầu có khả năng tự cầm, sau phải có can thiệp của các cơ sở y tế mới cầm được máu mũi. Đi cùng các triệu chứng này là dấu hiệu ù tai và nghe kém do khối u chèn ép vùng loa vòi tai. Người bệnh gầy xanh, mệt mỏi.

Khám hốc mũi thấy khối u màu hồng nằm bịt cửa mũi sau, khi phát triển lớn lấp đầy hốc mũi, khối u đẩy dồn làm hẹp hốc mũi bên đối diện. Khám họng và soi mũi sau thấy màn hầu phồng lên, bị đẩy dồn về phía trước và phía dưới hoặc quá to thòi xuống tận họng. Sờ nhẹ nhàng xem khối u cứng hay mềm, to hay nhỏ, có di động không.

Nếu để phát triển tự nhiên khối u sẽ lấp đầy hốc mũi, xoang hàm, xoang bướm, hốc mắt, phá vỡ hàm ếch, tiêu xương hàm trên và nổi phồng dưới da. Khối u chui vào nội sọ, tổn thương thần kinh nội sọ làm mù mắt, khó nuốt, không ngửi được. Bệnh nhân có khối u xơ vòm mũi họng không được điều trị sẽ tử vong vì chảy máu và biến chứng nội sọ gây tăng áp lực sọ não.

Chẩn đoán xác định được thực hiện qua thăm khám lâm sàng: Khối u màu hồng, xuất hiện ở cửa mũi sau của bệnh nhân nam giới tuổi từ 15-25, có chảy máu mũi cần được gửi tới cơ sở chuyên khoa tai mũi họng để chụp CT. Scanner và chụp mạch để có quyết định chính xác.

Xử trí bệnh
Phẫu thuật là phương pháp điều trị chủ yếu, nếu được phát hiện sớm khối u có thể mổ qua đường nội soi lấy bỏ, đường này không để lại vết sẹo cạnh mũi như phẫu thuật với khối u to. Trường hợp khối u quá to không còn chỉ định phẫu thuật có thể chỉ định tia xạ kết hợp với nội tiết tố giúp teo nhỏ khối u.


Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Các loại bệnh bạch hầu và biến chứng

Triệu chứng bệnh thay đổi tùy vị trí, thời gian và sự phân bố độc tố vi khuẩn trong cơ thể và tình trạng miễn dịch của đứa trẻ. Thời kỳ ủ bệnh chừng 2-4 ngày, biểu hiện bằng các triệu chứng khó chịu như nhức đầu, đau họng. Tùy vị trí vi khuẩn phát sinh ở mũi, họng hay thanh quản mà có các biểu hiện lâm sàng khác nhau:



Bạch hầu mũi: T
hường bắt đầu bằng chảy nước mũi nhẹ một hoặc hai bên, kéo dài mấy ngày liền, có khi nước mũi lẫn máu làm loét môi và có mùi hôi. Triệu chứng toàn thân có thể nhẹ nhưng vẫn có thể hình thành một màng ở vách mũi. Bệnh thường gặp ở trẻ còn bú.
Bệnh hầu họng: Đứa trẻ đột ngột đau họng, nhức đầu và khó chịu, đồng thời mạch quá nhanh so với tình trạng sốt nhẹ. Khám họng có thể dễ dàng nhìn thấy màng giả màu trắng xám ở họng. Nếu bóc lớp màng này sẽ gây chảy máu (đó chính là một đặc điểm của màng giả bạch hầu).

Bạch hầu thanh quản: Thường do bạch hầu họng lan xuống, bệnh gặp ở trẻ còn bú. Triệu chứng bắt đầu là tiếng ho khàn, rồi thở rít, co kéo hõm ức, vẻ mặt sợ hãi. Dấu hiệu khó thở ngày càng tăng, nếu không xử lý kịp có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Ngoài ra, vi khuẩn bạch hầu có thể gây tổn thương ở mắt, tai, âm đạo và ngoài da. Những tổn thương ngoài da là nguồn lây bệnh quan trọng từ người này sang người khác.

Biến chứng của bệnh bạch hầu: là nguyên nhân quan trọng gây tử vong ở trẻ.
Biến chứng tim mạch: đó là viêm cơ tim do nhiễm độc thường xảy ra vào ngày thứ hai đến ngày thứ bảy. Biểu hiện: nhịp tim nhanh, tim có tiếng thổi, đặc biệt có thể rối loạn dẫn truyền dẫn tới ngừng tim và tử vong.

Biến chứng thần kinh: Bao gồm liệt cục bộ các dây thần kinh sọ (số 4, số 10), xuất hiện sớm nhất vào ngày thứ 5, có thể kèm nhìn mờ, khó nuốt, nói giọng mũi... Có thể xuất hiện suy tim và trụy mạch do thoái hóa các trung tâm vận mạch và liệt lớp cơ động mạch vào tuần lễ thứ hai hoặc thứ 3 sau phát bệnh.

Biến chứng viêm dây thần kinh ngoại biên: đây là biến chứng muộn có khi xảy ra 12 tuần lễ sau thương tổn cục bộ. Có khi liệt toàn thể hoặc đồng thời liệt dây thần kinh hoành, viêm dạ dày và viêm gan.

Phòng bệnh: Cách tốt nhất để phòng bệnh bạch hầu là tiêm vacxin cho trẻ theo lịch tiêm chủng. Tuy nhiên, tiêm vacxin không phải bao giờ cũng có kết quả hoàn toàn nhưng nếu đã tiêm thì khi nhiễm bệnh sẽ nhẹ hơn và ít biến chứng hơn.

Tóm lại: Các bậc cha mẹ cần biết cách phát hiện sớm, khi trẻ mắc bệnh cần sớm đưa trẻ đến khám và điều trị tại bệnh viện để tránh những hậu quả đáng tiếc do đến muộn. Đây là bệnh truyền nhiễm lây lan nhanh nên khi phát hiện cần cách ly trẻ sớm.



Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Khả năng sớm phát hiện chứng mất trí nhớ Alzheimer

Các nhà khoa học thuộc Trường Đại Học Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ vừa tìm ra cách thức ghi dấu sự thoái hóa và triệt tiêu của các cảm thụ then chốt trong mô não. Hiện tượng này là triệu chứng sớm của căn bệnh mất trí nhớ Alzheimer.

Bệnh Alzheimer tạo ra cái chết cho những tế bào ở trung tâm ký ức của não bộ, làm cho vùng hippocampus trở nên khô héo.

Với phương pháp mới này người ta có thể phát hiện sự suy thoái của mô não sớm nhất. Họ sử dụng một dụng cụ đánh dấu hóa học và máy chụp cắt lớp. Các nhà khoa học tập trung vào việc đo lường số lượng của một loại cảm thụ đặc biệt có khả năng đáp ứng hóa chất serotonin. Các vật cảm thụ này có rất nhiều trong tế bào ở khu vực hippocampus. Chúng rất dễ tổn thương do ảnh hưởng của Alzheimer.

Các nhà khoa học ghi nhận sự tổn thất vật cảm thụ và tế bào ký ức then chốt khác là 49% ở bệnh nhân Alzheimer. Nhưng họ cũng ghi nhận được số tổn thất là 24% ở một số trường hợp suy giảm trí nhớ nhẹ mà họ cho là giai đoạn rất sớm của chứng Alzheimer.

KHANG LINH

Theo BBC NEWS, TTO

Lối sống lành mạnh giúp cơ thể người chống lại sự lão hóa

Lần đầu tiên, các nhà khoa học Mỹ đã tìm ra bằng chứng cho thấy lối sống lành mạnh có thể giúp các tế bào cơ thể người chống lại sự lão hóa.

Đây là kết quả của nghiên cứu kéo dài năm năm do một nhóm nhà khoa học do Giáo sư Dean Ornish thuộc Đại học California (Mỹ) đứng đầu, công bố trên tạp chí The Lancet Oncology

Nghiên cứu được thực hiện đối với 35 nam giới, trong đó có 10 người tuân thủ lối sống với chế độ ăn uống nhiều rau quả, tập thể dục đều đặn hàng ngày, tập luyện yoga và kiểm soát sự căng thẳng do các nhà khoa học đặt ra, 25 người còn lại giữ nguyên lối sống bình thường.

Ngoài chế độ ăn uống, luyện tập và giải trí hàng ngày, nhóm 10 người trên còn được tham dự các lớp học hàng tuần trong ba tháng, do các chuyên gia giảng dạy để củng cố các kỹ năng mới, trong đó có buổi học kéo dài một giờ mỗi tuần, được gọi là "buổi học hỗ trợ".


Sau năm năm, các nhà khoa học đánh giá về mức độ lão hóa sinh học của nhóm tham gia nghiên cứu, tập trung vào đoạn cuối của nhiễm sắc thể. Đoạn cuối của nhiễm sắc thể gồm các mảnh protein gắn vào đoạn cuối của các nhiễm sắc thể. Các mảnh protein này có chức năng giúp bảo vệ các chuỗi quan trọng của mã ADN trong quá trình tái tạo tế bào. Chúng thường được ví như các đầu nút của dây buộc giày.

Khi đoạn cuối của nhiễm sắc thể mòn đi, khả năng bảo vệ của nó cũng giảm và nguy cơ ADN không được sao chép một cách chính xác ở các thế hệ tế bào tiếp theo tăng lên. Điều này làm tăng nguy cơ dị dạng của tế bào và kéo theo đó là bệnh tật, trong đó có bệnh ung thư.

Do đó, nghiên cứu độ dài của đoạn cuối của nhiễm sắc thể có khả năng cho biết về tuổi thọ của tế bào. Trong nhóm 10 người, độ dài đoạn cuối của nhiễm sắc thể của họ tăng lên đáng kể sau năm năm với tỷ lệ trung bình 10%, tỷ lệ này còn cao hơn đối với những người tuân thủ nghiêm ngặt lối sống trên. Tuy nhiên, trong toàn bộ nhóm người tham gia nghiên cứu, độ dài đoạn cuối nhiễm sắc thể giảm đi với tỷ lệ trung bình 3%.

Kết quả của nghiên cứu vẫn còn hạn chế do số người tham gia còn ít và việc tiến hành nghiên cứu chỉ là một phần của dự án nghiên cứu về bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng không được phép kiểm tra xem liệu sự thay đổi lối sống có ảnh hưởng đến nguy cơ mắc bệnh ung thư hay không.

Theo Giáo sư Ornish, kết quả của nghiên cứu này cho phép nghiên cứu sâu hơn về bệnh ung thư tuyến tiền liệt ở nam giới. Nếu kết quả trên được xác nhận bởi các nghiên cứu khác trên diện rộng hơn, sự thay đổi lối sống một cách toàn diện này có thể đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm nguy cơ bệnh tật và dị dạng bẩm sinh ở con người

Theo TTXVN/Vietnam+