Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng

Chữa ăn khó tiêu bằng... sỏi mật của động vật

Hình dáng cẩu bảo trông giống như những viên đá trắng hơi phơn phớt xanh, có nhiều lớp xếp thành. Đây là loại sỏi kết lại của những con chó bị bị bệnh, kích thước 0,5-1 cm. Cẩu bảo vị mặn, tính ôn, vào kinh vị (dạ dày), có tác dụng giáng vị khí, khai thông đờm kết tụ.

Hình ảnh minh họa

Cẩu bảo chủ trị chữa chứng hay nôn sau ăn, nghẹn, khó tiêu. Liều dùng: 0,6-1,5 g. Người ăn vào bị nghẹn không nuốt được do huyết dịch suy kém thì không nên dùng.

Bài thuốc: Dùng 60 g uy linh tiên, trộn với 10 g muối giã nát hòa với một chén nước, gạn lọc bỏ bã đi rồi lấy nước uống mỗi ngày ba lần với 0,3 g cẩu bảo tán nhỏ, vài ba ngày sẽ khỏi.

Không chỉ chó mà các động vật khác như bò, ngựa cũng cung cấp thuốc chữa bệnh từ sỏi kết trong cơ thể chúng:

Sỏi mật bò
Đông y gọi là ngưu hoàng, tây ngưu hoàng, tây hoàng; phần lớn hình trứng, có thể hình cầu, hình tròn, vuông hoặc hình tam giác, đường kính 0,6-3,3 cm. Mặt ngoài màu vàng kim hay vàng nâu, đậm nhạt không đều, trơn mịn, hơi bóng, có khi bên ngoài phủ một lớp màng mỏng màu đen bóng, có hòn mặt ngoài có vằn nứt, cũng có hòn mặt nhám không nhẵn. Ngưu hoàng thể nhẹ, chất xốp, giòn, tay ấn dễ dập, mặt vỡ màu vàng nâu hay màu vàng kim, đậm nhạt không đều, bóng láng, khoảng cách đều nhau thành lớp vân tròn sắp xếp đều. Mùi thơm thanh nhẹ, vị trước hơi đắng sau ngọt, cho vào mồm hương thơm thanh mát, tan dần, nuốt không dính răng. Ngưu hoàng mặt ngoài mịn bóng, trơn, không có màu trắng là loại tốt.

Ngưu hoàng có tác dụng thanh tâm, giải nhiệt, lợi đàm, trị co giật, khai khiếu, giải độc. Chủ trị: Các chứng nóng sốt, phát cuồng, mê man, điên giản, co giật; trẻ em bị chứng kinh phong co giật (sài giật), cổ họng, miệng lưỡi sinh mụn, ung nhọt, đinh độc.
Liều dùng: 0,2-0,4 g dưới dạng thuốc hoàn, thuốc tán. Dùng ngoài lượng vừa đủ.

Bài thuốc: Trân châu, ngưu hoàng đều 30 g tán mịn trộn đều, trị loét sưng đau cổ họng (dùng đắp chỗ đau).

Sỏi ruột ngựa
Mã bảo là tên gọi loại sỏi kết lại trong dạ dày hoặc ruột con ngựa. Khi giết ngựa, moi trong dạ dày, ruột thấy có sỏi thì lấy ra sửa sạch, phơi khô chỗ mát là được.

Mã bảo phần nhiều hình cầu, hình trứng hay hình tròn dẹt to nhỏ không đều. Có hòn nặng 2-2,5 kg, có hòn một vài trăm gam. Đường kính 6-20 cm. Mặt ngoài màu xanh trứng hoặc màu trắng gio, nhẵn, thường có vân nhỏ hỗn loạn hoặc lồi lõm, chất cứng, nặng. Mặt vỡ màu trắng gio nhưng có lớp vân đồng tâm mỗi lớp dày 0,3-1 cm, đồng thời có nhiều vân nhỏ chi chít màu đen gio, nháp, không phẳng, không mùi, vị nhạt.

Mã bảo vị ngọt, mặn, hơi đắng, có tác dụng trấn kinh (chống co giật), hóa nhiệt đàm, thanh can, não. Chủ trị: Chữa điên cuồng, kinh giản (động kinh), cầm nôn mửa. Liều dùng: 0,3-0,9 g. Nghiền thành bột cho uống. Nếu tạng can, đảm không có nhiệt tà, nhiệt đàm thì không nên dùng.

DS. Phạm Hinh


Theo Sức Khỏe & Đời Sống, VNE

Tìm ra hợp chất mới có thể chống bệnh ung thư

Các nhà khoa học thuộc Viện ung thư quốc gia Mỹ và Trường đại học Johns Hopkins đã phát hiện một hợp chất mới mang tên CDDO-Im có khả năng chống lại ung thư gan ở động vật.

Hợp chất này kích thích các enzym trong cơ thể loại bỏ các chất độc hại trong các tế bào và tăng khả năng kháng các chất độc gây bệnh ung thư.

Các nhà khoa học cho rằng vì hợp chất CDDO-Im phát huy tác dụng ở liều rất thấp nên có thể được ứng dụng chống bệnh ung thư ở người, đặc biệt có hiệu quả ngăn chặn các bệnh ung thư có nguồn gốc từ các tác nhân viêm nhiễm mạnh như ung thư gan, trực tràng, dạ dày và tuyến tiền liệt.

CDDO-Im có thể cũng có hiệu quả ngăn chặn cao đối với các bệnh hen suyễn, khí thũng và suy thoái thần kinh. Hợp chất này có hiệu quả mạnh hơn 100 lần so với các hóa chất chống ung thư hiện đang được sử dụng và có thể ngăn chặn việc hình thành các u ung thư do can thiệp vào quá trình chống viêm nhiễm của tế bào thông qua kích hoạt Nrf2, loại protein nắm vai trò chủ yếu bảo vệ tế bào chống lại các tác nhân độc hại từ môi trường.

Hợp chất CDDO-Im thuộc về một lớp các chất chống ung thư được gọi là triterpenoids. Chất này được tổng hợp từ axit oleanoic, một chất tự nhiên được tìm thấy trong thảo mộc.

Theo Tuổi Trẻ, News-Medical

Cần theo dõi tình trạng huyết áp ở người lớn

Trong cuộc sống hiện đại, bệnh tăng huyết áp (THA) ngày càng thường gặp hơn tại cộng đồng. Tuy nhiên không ít người bệnh còn băn khoăn về tình trạng huyết áp (HA) của mình: như thế đã thực sự cao hay chưa? Nên kiểm tra lại HA sau bao lâu? Có cần dùng thuốc không? Chế độ sinh hoạt thế nào khi mắc bệnh này?...



Như thế nào là HA bình thường và như thế nào là THA?
HA tối ưu: Khi HA tối đa (hay HA tâm thu) < 120mmHg và HA tối thiểu (hay HA tâm trương) < 80mmHg. Những người có tình trạng HA tối ưu thường ít có nguy cơ mắc bệnh tim mạch.

Tuy nhiên những người có HA thấp không thường xuyên cần được khám, xem xét để xác định nguyên nhân.
HA bình thường: Khi HA tối đa < 130 mmHg và HA tối thiểu < 85mmHg.

HA bình thường cao: Khi HA tối đa từ 130-139mmHg và HA tối thiểu từ 85-89mmHg.

Tăng HA độ 1: Khi HA tối đa từ 140-159mmHg, HA tối thiểu từ 90-99mmHg.

Tăng HA độ 2: Khi HA tối đa từ 160-179mmHg, HA tối thiểu từ 100-109mmHg.

Tăng HA độ 3: Khi HA tối đa > 180mmHg, HA tối thiểu từ > 110mmHg.

Để khẳng định một trường hợp THA, nên đo HA từ 2 lần trở lên rồi lấy chỉ số trung bình và nếu có thể thì dựa vào chỉ số HA ở cả những lần khám sau thì càng chính xác. Khi chỉ số HA tối đa và tối thiểu rơi vào hai độ khác nhau thì độ nào cao hơn sẽ được chọn để tính là độ cao HA. Ví dụ: HA đo được là 160/92mmHg được xếp vào tăng HA độ 2.

Theo dõi chỉ số HA như thế nào?

Dựa trên chỉ số HA đo được ở lần đầu các nhà lâm sàng khuyến nghị một kế hoạch theo dõi chỉ số HA như sau.

HA tối đa < 130mmHg, HA tối thiểu < 85mmHg. Kiểm tra chỉ số HA trong 2 năm.

HA tối đa từ 130-139mmHg, HA tối thiểu từ 85-89mmHg. Kiểm tra chỉ số HA trong 1 năm.

HA tối đa từ 140-159mmHg, HA tối thiểu từ 90-99mmHg. Khẳng định lại tình trạng THA trong 2 tháng.

Huyết áp tối đa từ 160-179mmHg, HA tối thiểu từ 100-109 mmHg. Kiểm tra trong 1 năm. Người bệnh cần được tư vấn, xử trí hoặc đến khám tại các cơ sở y tế trong 1 tháng.

HA tối đa > 180 mmHg, HA tối thiểu >110 mmHg. Người bệnh cần được xử trí ngay hoặc đến khám tại các cơ sở y tế sớm tùy thuộc vào tình trạng lâm sàng.

Nếu HA tối đa và HA tối thiểu không cùng một mức độ thì kế hoạch theo dõi theo thời gian ngắn nhất. Ví dụ: chỉ số HA đo được là 160/86mmHg thì người bệnh cần được tư vấn, xử trí hoặc đến khám tại các cơ sở y tế trong vòng 1 tháng.

Nếu ở lần theo dõi mà chỉ số HA rơi vào mức nào thì điều chỉnh kế hoạch theo dõi theo mức đó. Ví dụ: ở lần đo đầu tiên chỉ số HA là 130/86mmHg, sau 1 năm kể từ lần đo đầu tiên đi kiểm tra lại HA theo kế hoạch cho thấy chỉ số HA là 140/92 mmHg thì người bệnh cần phải được khẳng định lại có THA trong vòng 2 tháng.

Khi phát hiện được tình trạng THA, người bệnh cần được tư vấn để phát hiện các yếu tố nguy cơ, đồng thời đến các cơ sở y tế khám để xác định các tổn thương do THA gây nên để được tư vấn cũng như cần điều chỉnh lối sống và can thiệp điều trị kịp thời.


Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO

Canxi giúp giảm các biến chứng khi mang thai

Tiến sĩ Marshall Lindheimer, đồng tác giả nghiên cứu trên cho biết việc bổ sung 1,5 gram canxi vào chế độ ăn uống hàng ngày “không ngăn ngừa được bệnh này mà chỉ giảm mức độ nguy hiểm của nó”. Tuy nhiên nó lại giúp giảm tỷ lệ tử vong ở cả bà mẹ và trẻ sơ sinh.

Preeclampsia ảnh hưởng đến khoảng 9% thai phụ trên toàn thế giới, theo tiến sĩ Villar. Nó có thể dẫn đến sinh non và buộc sản phụ phải sinh mổ. Nếu bệnh phát triển sang một dạng nghiêm trọng hơn - chứng kinh giật - người phụ nữ có thể bị ngập máu não hoặc hôn mê. Trong trường hợp tồi tệ nhất, preeclampsia có thể gây tàn tật hoặc tử vong cho bà mẹ hoặc thai nhi.

Trong nghiên cứu của mình, Villar và đồng sự đã chỉ định cho khoảng 8.300 phụ nữ đang được chăm sóc y tế tại 6 nước trên thế giới (gồm Argentina, Ai Cập, Ấn Độ, Peru, Nam Phi và Việt Nam) và chia thành nhóm sử dụng canxi và nhóm dùng giả dược. Trước khi nghiên cứu bắt đầu, tất cả phụ nữ đều nhận dưới 600 milligram canxi trong chế độ ăn, tức bằng một nửa lượng canxi được khuyên sử dụng trong thời gian mang thai.

Kết quả cho thấy nhóm tăng cường tiêu thụ canxi trong thời gian mang thai giảm được các biến chứng do preeclampsia gây ra.

Hiện chưa rõ nguyên nhân gây bệnh preeclampsia và cũng không có cách ngăn ngừa nó. Các nhà khoa học đang tiếp tục tìm hiểu về mối liên quan giữa canxi và căn bệnh này.

Theo khuyến cáo của các chuyên gia, phụ nữ mang thai nên dùng 1.200 milligram canxi mỗi ngày, nếu không nhận đủ canxi từ chế độ ăn thì nên bổ sung.

TƯỜNG VY

Theo HealthDay News, TTO

Các cách phòng ngừa viêm nhiễm, dị ứng ở mắt

Mùa xuân là mùa có độ ẩm cao, nhiệt độ trong ngày dao động mạnh từ 8-10 độ, nồng độ các dị nguyên trong không khí (phấn hoa, bụi, mốc, vi nấm) cao lên gấp bội so với các mùa khác trong năm. Hiển nhiên là những người có cơ địa dị ứng sẽ khổ sở vì những bất lợi do thời tiết vừa nêu trên. Bệnh hen suyễn, bệnh viêm mũi xoang, mắt, dị ứng sẽ có cơ hội để bùng phát. Với chuyên ngành mắt thì các bệnh nhân đến khám vì viêm kết mạc dị ứng các loại, các sang chấn mắt do côn trùng cũng tăng đột biến.

Các viêm nhiễm có tính chất dị ứng
Viêm kết mạc theo mùa: Bệnh hay xảy ra trên bệnh nhân có cơ địa dị ứng - viêm mũi xoang dị ứng chẳng hạn. Mật độ dị nguyên trong không khí cao lên nhiều vào mùa xuân: phấn hoa, cỏ khô, lông và phấn của côn trùng. Hiển nhiên là chúng sẽ khơi mào cho các viêm nhiễm dị ứng tại đường thở và ở mắt. Vì liên quan đến dạng quá mẫn týp I thông qua kháng thể loại IgE nên sau khi tiếp xúc với dị nguyên người bệnh sẽ xuất hiện nhanh chóng các triệu chứng: sưng phù mi - kết mạc, ngứa mắt, đỏ mắt, ra gỉ mắt dạng keo nhày.

Bệnh có tính thời vụ và điều trị không phức tạp lắm. Chườm lạnh tại chỗ làm bệnh nhân dễ chịu rõ rệt. Các thuốc tra nhỏ mắt khá đa dạng và sẵn có trên thị trường: thuốc co mạch tại chỗ làm mắt giảm sưng phù và đỏ mắt nhanh, nước mắt nhân tạo hoặc nước muối sinh lý để rửa trôi dị nguyên và an dịu mắt, các thuốc kháng histamin và ổn định dưỡng bào dạng nhỏ mắt thường có tác dụng rất tốt.

Viêm kết giác mạc mùa xuân: Tên của bệnh nghe có vẻ lãng mạn, thế nhưng những phiền toái mà bệnh gây nên cho cả bệnh nhân và thầy thuốc lại không hề “lãng mạn” chút nào. Bệnh phần lớn xảy ra ở nam thiếu niên, có xu hướng tái phát theo chu kỳ xuân - hè, ảnh hưởng rất lớn đến học tập của các cháu, gây phiền muộn cho các bậc phụ huynh. Thường gặp ở trẻ có tiền sử dị ứng: chàm, hen suyễn...

Triệu chứng cơ bản là ngứa, càng gãi, càng day dụi thì càng thích. Điều này liên quan đến biến chứng có thể có là loét giác mạc do trẻ day dụi quá mạnh. Mắt không đỏ nhiều, ra gỉ mắt dạng keo ở mức độ vừa phải. Ở dạng có tổn thương giác mạc trẻ sẽ có cảm giác nóng rát, sợ sáng và chảy nước mắt liên tục.

Khi thăm khám thấy tổn thương có các dạng:
- Dạng khu trú ở kết mạc: tăng sinh nhú gai chủ yếu ở kết mạc mi trên, có khi phát triển như sỏi cuội gọi là nhú khổng lồ.

- Dạng có tổn thương ở vùng rìa: hay xảy ra ở những người da đen và tiên lượng tốt hơn trên. Bệnh nhân có cương tụ rìa khu trú vùng rìa dày lên trông như dán keo và có nhiều nốt trắng đục.

- Dạng có tổn thương ở lòng đen kèm theo: viêm biểu mô dạng chấm, loét và hoại tử dạng “đảo loét”, sẹo dưới biểu mô...

Các thuốc chống viêm dạng không có steroid, thuốc ổn định dưỡng bào, nước mắt nhân tạo các loại chỉ đem lại dễ chịu cho bệnh nhân phần nào. Những cơn kịch phát chỉ giảm nhanh khi gặp vũ khí mạnh - corticosteroid. Sự nôn nóng của người bệnh thúc ép các bác sĩ phải dùng vũ khí trên hoặc bản thân họ tự mua dùng sẽ kèm theo hệ lụy: biến chứng do dùng cortizol kéo dài mà nghe thấy ai cũng phải sợ: glôcôm, loét và hoại tử giác mạc do bội nhiễm nấm - vi khuẩn - herpes, đục thể thủy tinh...

Với thể viêm này quan điểm điều trị là:
- Chườm lạnh sẽ làm đa phần bệnh nhân dịu được cơn ngứa, tránh day dụi tối đa.

- Nước mắt nhân tạo không bao giờ là thừa, tốt nhất là loại không có chất bảo quản.

- Các thuốc ổn định dưỡng bào và các chế phẩm steroid nên được dùng xen kẽ với nhau. Steroid được khuyên dùng trong cơn kịch phát, liều cao trong 5-7 ngày rồi dừng, sau đó thay thế bằng các thuốc kháng histamin tại chỗ - ổn định dưỡng bào hoặc chống viêm không có steroid.

Viêm kết mạc - giác mạc kiểu atopi: là bệnh hiếm gặp. Các trường hợp điển hình xảy ra trên bệnh nhân bị viêm da dị ứng: viêm da vùng cổ bên, mặt duỗi của tay, các nếp gấp tự nhiên. Thêm nữa bản thân bệnh nhân hoặc thân nhân đã từng bị hoặc đang bị hen, viêm mũi dị ứng.

Các dấu hiệu lâm sàng không mang tính đặc trưng cao: không có hoặc có ít cơn kịch phát, nhú gai trung bình và lan tỏa cả kết mạc mi trên và mi dưới, phù kết mạc mạnh và tân mạch giác mạc. Lâu dài bệnh thường gây ra sẹo kết mạc hoặc dính mi cầu. Sẹo giác mạc gây giảm thị lực rất hay gặp, nhất là nếu bệnh nhân bị viêm nhiễm phối hợp do herpes hoặc cầu khuẩn.

Điều trị bệnh rất khó khăn do tỷ lệ phụ thuộc vào cortizol rất cao. Các thuốc kháng histamin dạng uống có thể dùng nếu bệnh nhân ngứa nhiều.

Dị ứng nói chung và các viêm nhiễm do dị ứng tại mắt nói riêng là một vấn đề sức khỏe toàn cầu. Con người đã tiến những bước dài trong vệ sinh cá nhân. Chính vì vậy mà tỷ lệ bệnh do nhiễm khuẩn, nhiễm ký sinh trùng có vẻ giảm đi. Thế nhưng dị ứng với những căn nguyên đan xen giữa yếu tố thiên bẩm, gia đình, rối loạn miễn dịch, ô nhiễm công nghiệp lại ngày càng phổ biến. Tự bảo vệ mình trước những dị nguyên, uống nhiều nước, uống vitamin C thường xuyên là cách thức phòng hộ cá nhân tốt nhất trước khi y học có những phương pháp điều trị hoàn hảo hơn.

Theo Sức Khỏe & Đời Sống, TTO