Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng

Cách giúp thai nghén an toàn và sinh con khỏe mạnh

Trước khi quyết định sinh con, hãy tìm hiểu lịch sử bệnh tật của gia đình và bản thân, vì có thể 2 bạn đang mang một bệnh di truyền nghiêm trọng. Với những bệnh này, một khi đã thụ thai thì không còn phòng ngừa được nữa. 




Những phụ nữ nào cần được chăm sóc từ trước khi thụ thai?
Tất cả phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, đặc biệt là những người bị bệnh tiểu đường, đái ra chất xêton (phenylketonuria), một số bệnh nhiễm khuẩn hay di truyền. Sảy thai tự nhiên có thể xảy ra cho khoảng 25% số ca thai nghén ở người bị các bệnh này.

Tại sao những hiểu biết về sự phát triển thai nhi lại quan trọng?
Vì nó giúp bạn không rơi vào tình trạng đã quá muộn. Khi bạn nhận thấy mình chậm kinh thì tinh trùng đã thụ tinh cho trứng rồi (thông thường là 17 ngày) và một mầm sống đang phát triển rất nhanh trong bạn. Các tế bào của mầm sống ấy đang biệt hóa để tạo thành tim và nhiều cơ quan khác. Trong thực tế, phần lớn sự tạo thành các cơ quan của thai diễn ra trong 3 tháng đầu sau khi thụ tinh. Tim thai nhi bắt đầu đập sau tuần lễ thứ 4. Khoảng tuần lễ thứ 8 đã có thể nhận biết được mắt, tai, mũi, miệng, các ngón tay chân và ngón cái của thai nhi. Và đến khoảng tuần thứ 12 thì hầu hết các cơ quan quan trọng đã thành hình. Chính trong giai đoạn sớm của sự tạo thành các cơ quan này, thai nhi rất dễ bị tổn thương bởi các loại thuốc, bởi virus, các hóa chất và nhiều tác nhân khác, dẫn đến khuyết tật.

Ý nghĩa của việc tìm hiểu lịch sử bệnh tật của gia đình và bản thân? 
Bạn hay chồng bạn có thể đang là người mang một bệnh di truyền nghiêm trọng. Trong trường hợp đó, bạn sẽ được tư vấn để giảm nguy cơ truyền bệnh cho con. Một khi đã thụ thai thì không còn phòng ngừa được nữa. Thầy thuốc cũng cần biết tiền sử sinh đẻ của bạn (với những người đã từng có thai), ví dụ số lần bị sảy, đẻ non, khó khăn trong thụ thai hay những vấn đề về sản phụ khoa để có biện pháp phòng ngừa cho những kỳ thai nghén sau. Dựa trên những dữ liệu thăm khám và lịch sử sinh đẻ, bệnh tật, thầy thuốc sẽ giúp bạn có nhiều cơ may sinh con khỏe mạnh hơn.

Tư vấn về gene học và phát hiện những bất thường liên quan đến gene có thực sự cần thiết không? 
Cải thiện chất lượng dân số đang là vấn đề được quan tâm ở các nước phát triển cho nên công việc này cũng rất được chú ý... Đây là cách tiếp cận theo hướng ưu sinh học, nghĩa là hoàn thiện chất lượng nòi giống của các thế hệ tương lai, cả về mặt thể chất lẫn tâm trí. Nếu thầy thuốc nghi ngờ bạn mang một bệnh di truyền nào đó thì nhiều thăm dò về gene sẽ được tiến hành cho bạn; và nếu đã có thai thì cho cả thai (nhờ xét nghiệm mẫu nước ối và gai rau). Hiện nay có hơn 1.500 bệnh do gene. Nhiều bệnh nghiêm trọng về gene liên quan đến chủng tộc.

Ngoài các bệnh về gen, còn phải đề phòng những bệnh gì? 
Bệnh tiểu đường type 1 (phụ thuộc vào insulin) cần phát hiện trước khi có thai. Nếu kiểm soát được tốt đường huyết trong suốt thời kỳ thai nghén thì có thể giảm nguy cơ sinh con dị dạng bẩm sinh và tránh biến chứng cho mẹ.

Có nhiều bệnh làm cho thai nghén trở thành nguy cơ đối với mẹ. Ví dụ, bệnh rubella và viêm gan B có thể ảnh hưởng đến thai, do đó cần tạo miễn dịch (tiêm chủng) để phòng ngừa hai bệnh này ngay từ khi chưa có thai. Nếu mắc bệnh trong giai đoạn đầu của thai nghén thì rubella có thể gây tổn thương cho mắt, tai và tim của thai nhi. Viêm gan B thường lây qua đường tình dục, cũng có thể truyền từ mẹ sang thai và trẻ đẻ ra có thể trở thành người mang bệnh và có những ảnh hưởng nghiêm trọng đến chức năng gan.

Thầy thuốc có thể cho làm nhiều thăm dò khác để phòng ngừa những nguy cơ cho thai khi nhận thấy bạn có nguy cơ gây nhiễm bệnh. Ví dụ, bạn hay nuôi mèo và thường tiếp xúc với thịt sống thì cần phát hiện bệnh toxoplasmosis... Một số bệnh lây truyền qua đường tình dục (lậu, giang mai, chlamydia, HIV/AIDS...) cần được điều trị từ trước khi có thai.

Chế độ ăn và thuốc men có tác dụng phòng ngừa những ảnh hưởng xấu cho thai như thế nào? 
Ngay khi bạn dự định có thai, bác sĩ đã cần nói cho bạn biết những tác dụng có hại của một số thuốc thông thường. Ví dụ, thuốc trị trứng cá Accutne không nên dùng vì có thể tăng nguy cơ dị tật cho thai; hoặc dùng quá nhiều vitamin A, B6, C, D, E, K, chất sắt, kẽm, selenium... có thể có hại cho thai nghén.

Bổ sung axid folic hằng ngày là cách tốt nhất để bảo vệ hệ thần kinh cho đứa con đang dự định của bạn, giảm nguy cơ thai bị dị tật ở cột sống, nhất là khi được sử dụng sớm khi mới có thai và với những phụ nữ có tiền sử sinh con có khuyết tật ở ống thần kinh. Thầy thuốc cũng sẽ khuyến cáo về tác hại của rượu, thuốc lá và những thứ gây nghiện khác đến thai - đây cũng là những tác nhân có hại thường thấy nhất và cũng dễ tránh nhất. Những thứ này có thể gây đẻ non, con đẻ ra nhẹ cân, chậm phát triển tâm trí, dị dạng mặt và nhiều dị tật khác.

Tóm lại, chăm sóc ngay từ khi chưa thụ thai không chỉ là tư vấn mà còn là can thiệp tích cực theo hướng dự phòng. Đối với một số trường hợp, việc đi đến đơn vị quản lý thai nghén khi đã có thai nhiều khi cũng là quá muộn.

BS Đào Xuân Dũng, Sức Khỏe & Đời Sống

Những bài thuốc thảo dược chữa ung thư

Trong Đông y, cỏ lưỡi rắn trắng có tên là bạch hoa xà thiệt thảo, còn có tên là bồi ngòi bò, xà thiệt thảo, xà châm thảo, long thiệt thảo. Tên khoa học là Hedyotis diffusa Willd, thuộc họ cà phê. Đây là loại cỏ mọc bò, sống hàng năm, có thể cao tới 30-40 cm. Lá mọc đối, hơi thuôn dài, không có cuống lá, có khía răng ở đỉnh. Hoa mọc đơn độc hoặc thành đôi ở kẽ lá, có màu trắng. Quả nang khô dẹt ở đầu, có nhiều hạt màu nâu nhạt. Cây thường mọc hoang nơi đất ẩm ướt. Ngay tại Hà Nội cũng thấy cây này. Nó được dùng toàn cây làm thuốc.



Trong y học cổ truyền, bạch hoa xà thiệt thảo được dùng chữa các bệnh viêm họng, viêm đường tiết niệu, viêm gan, sỏi mật, lỵ trực trùng, mụn nhọt, rôm sảy, rắn cắn; dùng ngoài chữa vết thương, côn trùng đốt, đau lưng, đau khớp… Thời xưa, Tuệ Tĩnh thường dùng nó chữa rắn cắn, sởi…

Theo y học hiện đại, do tăng cường khả năng của đại thực bào trong hệ thống lưới- nội mô và bạch cầu nên bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng chống viêm. Cây này cũng ức chế tế bào ung thư lymphô, bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân, tế bào carcinom; ức chế hiện tượng gây đột biến do aflatoxin B1 tạo ra. Nó hỗ trợ điều trị bệnh ung thư nhờ tác dụng ức chế miễn dịch. Trung Quốc dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh ung thư dạ dày, thực quản, cổ tử cung, bàng quang, trực tràng, đại tràng, thực quản, hạch…

Tại Ấn Độ, bạch hoa xà thiệt thảo còn được dùng chữa các bệnh viêm gan virus, sốt, lậu… Tương đồng với y học Ấn Độ, một số nước cũng dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh viêm gan. Trung Quốc đã bào chế một loại thuốc từ thảo dược với tên Ất can ninh, thành phần có bạch hoa xà thiệt thảo, hoàng kỳ, nhân trần, đảng sâm, hà thủ ô?… Theo các nhà khoa học, Ất can ninh có tác dụng ức chế miễn dịch, ngăn ngừa sự phát triển của virus và phục hồi chức năng gan, có tác dụng tốt trong điều trị bệnh viêm gan virus B. Thảo dược này cũng có mặt trong Lợi đởm thang bên cạnh các thành phần nhân trần, kim tiền thảo, dùng chữa sỏi mật, viêm đường mật ở Trung Quốc.

Trong dân gian, cây chủ yếu được dùng dưới dạng thuốc sắc, có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Liều dùng có thể tới 60 g thuốc khô, tương đương với khoảng 250 g dược liệu tươi. Dùng ngoài không kể liều lượng. Ở nước ngoài, bạch hoa xà thiệt thảo còn được bào chế thành dạng thuốc tiêm để chữa các bệnh ung thư và viêm nhiễm như viêm phế quản, viêm phổi, viêm họng, viêm ruột thừa…

Một số bài thuốc Nam đơn giản 
Chữa ung thư gan: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, chó đẻ răng cưa 30 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa ung thư dạ dày: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 60 g, hạt bo bo 40 g, đường đỏ 40 g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa viêm họng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, bồ công anh 20 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa phù thũng: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, rễ cỏ tranh 30 g, râu ngô 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa viêm gan vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, chó đẻ răng cưa 30 g, nhân trần 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa sỏi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim tiền thảo 20 g, màng trong mề gà sao cách cát cho vàng 16 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Hoặc: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, nhân trần 40 g, kim tiền thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang (lợi đởm hợp tễ). Bài thuốc này đã được Trung Quốc áp dụng trên lâm sàng, có tác dụng lợi mật, tăng bài tiết mật. Thường được áp dụng cho bệnh sỏi mật, bệnh đường mật…
Chữa lỵ trực trùng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, rau sam 20 g, lá mơ tam thể 20 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa lỵ, viêm phần phụ: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang. (Phúc kiến trung thảo dược).
Chữa nhọt lở: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim ngân hoa 20 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa rôm sảy: Bạch hoa xà thiệt thảo, cúc liên chi dại. Hai vị lượng bằng nhau. Dùng để nấu nước tắm.
Chữa vết thương sưng đau: Bạch hoa xà thiệt thảo 200 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa mụn nhọt: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày.
Chữa rắn cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 100 g, giã nát, cho thêm nước, bã đắp vào chỗ rắn cắn, còn nước uống.


Theo Sức Khỏe & Đời Sống

Những các hay hòng tránh dị ứng thức ăn ở trẻ nhỏ

Dị ứng có thể xảy ra vài phút hoặc vài giờ sau ăn. Các triệu chứng có thể gặp là: sưng, ngứa họng, miệng, đau bụng, nôn, buồn nôn, tiêu chảy, hoa mắt, chóng mặt, nổi ban đỏ, ngứa trên da. Nặng hơn là khó thở, huyết áp giảm, thậm chí tử vong... 



Một số trẻ xuất hiện các triệu chứng muộn (vài ngày sau khi ăn thức ăn chứa dị nguyên) gồm viêm da, hen, viêm mũi dị ứng, viêm xoang, ho dai dẳng, chảy nước mũi, táo bón, ra mồ hôi, biếng ăn, giảm tập trung và ngủ kém.

Mức độ nặng của bệnh phụ thuộc vào thời gian xuất hiện phản ứng sau khi ăn, lượng thức ăn mà trẻ đã tiêu thụ và cơ địa của trẻ.

Tuy nhiên, nên phân biệt dị ứng thức ăn với triệu chứng bất dung nạp thức ăn, ví dụ như bất dung nạp lactose. Do thiếu lactose là một loại enzym giúp tiêu hóa đường lactose trong sữa nên khi ăn sữa bò, trẻ sẽ có các triệu chứng như nôn, buồn nôn, tiêu chảy, chướng bụng, đầy hơi, thậm chí có thể nổi ban trên da. Tuy nhiên, hệ miễn dịch không tham gia vào cơ chế của các triệu chứng trên nên chúng ta không gọi đó là dị ứng. Một số nước kém phát triển, người dân ít tiêu thụ các chế phẩm chứa đường lactose (sữa và các chế phẩm làm từ sữa) nên tuyến tiết enzym lactose bị teo, gây ra hiện tượng bất dung nạp lactose mắc phải.

Các thức ăn hay gây dị ứng là lạc, hạnh nhân, cá, hải sản, trứng (đặc biệt lòng trắng trứng), sữa... Nên nhớ rằng, hệ thống miễn dịch của trẻ cần có thời gian để hình thành phản ứng miễn dịch với dị nguyên có trong thức ăn. Chính vì thế dị ứng thức ăn ít khi xảy ra khi lần đầu tiếp xúc với loại thức ăn đó.

Làm gì để phòng tránh dị ứng thức ăn ở trẻ? 
Những trẻ được sinh ra trong gia đình có người mắc các bệnh dị ứng sẽ dễ bị dị ứng thức ăn nên cần được bú sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Khi trẻ bước sang tuổi ăn dặm, không nên vội vã cho ăn nhiều loại thức ăn mới cùng lúc. Nên bắt đầu với các thức ăn ít dị ứng như gạo và các loại củ. Tránh cho trẻ dùng các loại thức ăn chế biến theo lối công nghiệp như thịt lợn xông khói, thịt lợn muối, các chất nhuộm màu, gia vị nhân tạo.

Nên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa dị ứng khi bạn nghi ngờ con mình dị ứng với một loại thức ăn nào đó. Các bác sĩ sẽ thăm khám, hỏi bệnh và có thể thực hiện một số xét nghiệm chuyên khoa như xét nghiệm trên da của trẻ hoặc làm xét nghiệm máu (RAST) để xác định một cách chắc chắn thức ăn mà trẻ bị dị ứng. Tuy nhiên, tính chính xác của xét nghiệm này chưa cao. Chính vì thế, bạn không thể dựa đơn thuần vào kết quả xét nghiệm để quyết định chế độ ăn cho trẻ. Một số xét nghiệm có độ chính xác cao hơn nhưng độ an toàn thấp hơn như test kích thích với chính loại thức ăn nghi ngờ. Nên thực hiện xét nghiệm này khi có sự giám sát của bác sĩ chuyên khoa dị ứng.

Khi biết trẻ dị ứng với một loại thức ăn nào đó, nên loại bỏ nó ra khỏi thực đơn của trẻ. Không nên chế biến hoặc đựng thức ăn của trẻ trong các âu bát có dính các thức ăn mà trẻ dị ứng.

Tuy nhiên, dị ứng thức ăn không kéo dài suốt cả đời, chính vì thế bạn không cần bắt trẻ kiêng khem kéo dài một loại thực phẩm nào cả. Sau một thời gian, bạn có thể cho trẻ ăn lại thức ăn đó (ngoại trừ những món gây phản ứng dị ứng cấp tính như sốc phản vệ).

ThS Hoàng Thị Lâm, Sức Khỏe & Đời Sống

Các phương thuốc chữa nứt nẻ chân tay mùa đông

Mùa đông, tính ấm của da thịt bị tình hàn của thời tiết xâm nhập, khiến vận mạch dưới da ngưng trệ, dẫn đến khô nẻ, đau nhói. 



Chữa chứng da tay chân bị nứt nẻ 
Xuyên tiêu 10-15 g, sắc, nấu lấy nước để dùng ngâm chân tay ngày 2 lần. Chờ ráo nước nơi đau, lấy tủy não lợn hoặc não dê bôi lên vết nẻ nứt một lớp mỏng. Không có tủy não lợn, dê thì có thể thay thế bằng mỡ lợn.

Đây là phương thuốc Thâm sư dùng trị tay chân nẻ nứt hiệu quả cao. Thâm sư tức Thâm Công người thời Lưu Tống Nam triều ở Trung Hoa. Xuyên tiêu vị cay, tính nóng, có tác dụng tán hàn trừ thấp, là loại dược liệu dùng xông rửa chữa trị ngứa ngáy, thấp chẩn trên da dẻ. Theo y học hiện đại, xuyên tiêu còn ức chế nhiều loại vi khuẩn và một số khuẩn da, tác dụng gây tê cục bộ nên làm giảm đau, giảm ngứa. Xuyên tiêu có thể xúc tiến sự tuần hoàn máu cục bộ ở da làm tán hàn, chữa bệnh nấm ngoài da. Ngoài ra, xuyên tiêu lại hoãn giải được đau nhói. Còn tủy não lợn hay dê hoặc mỡ làm tư nhuận da.

Chữa chứng nóng đau do tay chân nứt nẻ 
Chứng này sử dụng phương “Tam vật hoàng cầm thang” trích trong bộ Thiên kim phương. Phương này thích hợp với những người có thể chất hơi khát, tay chân nứt nẻ đau nhói, nóng bỏng nhất là về đêm nên có khi không ngủ được, miệng khô, lưỡi ráo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dày.

Dược liệu: Hoàng cầm 6 g, khổ sâm 12 g, can đại hoàng 24 g. Cách bào chế và sử dụng: Sắc kỹ lấy nước uống trước bữa ăn, chia 3 lần trong ngày.

Chữa chứng khô ráo, nứt nẻ da thịt ngón tay, hai má

Được dùng từ phương “Ngọc tiết cao” trong Ngự dược viên phương. Theo Khấu Tông Thích, phương này không thể uống thường xuyên và uống quá nhiều vì sẽ gây tổn thương con người. Vì vậy, nó được dùng ở dạng cao bôi làm thuốc ngoài da là nhiều. Chế phẩm của “Ngọc tiết cao” như sau:

Bột nhẹ 12 g, định phấn (bột chì) 12 g, mật đà tăng 9 g. Tán 3 vị thuốc trên thành bột mịn. Lấy hạt nhân trắng trong tạo giác tử rồi dùng nước tương thủy (nước cất), ngâm nở mềm thành dạng cao. Sau đó dùng cao ngâm này trộn đều với bột thuốc đã tán mịn, thấy đặc sệt thành cao là được. Cất dùng dần.

Hằng ngày lấy cao này bôi lên vết nẻ nứt một lớp mỏng. Vị bột nhẹ có thể công độc, sát khuẩn, giảm ngứa và chữa được nhiều loại bệnh ngoài da, chữa lành vết sẹo bị cào xước da. Còn vị định phấn (bột chì) vị cay, tính hàn, có độc nhưng lại làm da nhẵn mịn. Mật đà tăng cũng có chất độc nên không dùng để uống, nhưng có tác dụng làm đẹp, chữa được chứng da bị sạm đen (theo Tân tu bản thảo) và còn dùng chữa mụn nhọt tiêu sưng độc (theo Bản thảo cương mục).
3 vị thuốc trên hợp lại tác dụng tốt cho thanh nhiệt, tiêu sưng, giải độc, chữa da dẻ ghẻ lở, nấm. Hạt nhân trắng trong tạo giác tử có tác dụng rất tốt với chứng mụn ghẻ ngoài da, có thể tiêu sưng tán kết; còn tương thủy lại tư dưỡng da dẻ, làm cho da dẻ trắng trẻo.

Trung y cho rằng phương này có thể chữa được da dẻ nẻ nứt, sần sùi hoặc nổi mụn nhọt, nấm ngoài da; đặc biệt trị tốt các loại bệnh ngoài da mạn và cấp tính và làm da trở lại nhẵn mịn, tươi sáng.

BS Hoàng Xuân Đại, Sức Khỏe & Đời Sống

Trẻ dễ gặp biến chứng khi bị viêm khớp mãn tính

Hiện nay, cơ chế gây viêm khớp mãn tính ở thiếu niên vẫn còn chưa được biết rõ. Người ta chỉ ghi nhận sự hiện diện của một số kháng thể miễn dịch tùy theo thể bệnh: HLA B27 trong 90% trong các trường hợp viêm khớp cột sống ở trẻ em, kháng thể kháng nhân (ANA) trong thể tổn thương ít khớp hay yếu tố thấp (RF) trong thể tổn thương nhiều khớp. Đối với thể bệnh toàn thân hay thể viêm nhiều khớp, tỷ lệ tử vong sau 15 năm lên tới 10-15%. 



Khi một trẻ dưới 16 tuổi đến khám với triệu chứng sưng đau ít nhất là một khớp, kéo dài hơn 6 tuần thì cần phải nghĩ đến chẩn đoán bệnh viêm khớp mãn tính ở thiếu niên. Trên lâm sàng, có thể gặp 3 dạng bệnh lý:

Thể toàn thân (hay còn gọi là bệnh Still) 
Trẻ thường bị sốt dao động, mệt mỏi, đau nhức cơ toàn thân; các triệu chứng này không giảm khi dùng aspirin liều thông thường. Trẻ có thể bị nổi mẩn đỏ ở thân mình và các gốc chi (90%) nhưng các mẩn đỏ này mất rất nhanh. Triệu chứng viêm khớp có thể xảy ra ngay từ đầu hay sau vài ngày, thường là trẻ bị sưng đau các khớp cổ tay, gối và mắt cá chân cả hai bên. Các tổn thương khác cũng có thể gặp như trẻ bị nổi hạch, gan lách to, viêm đa màng như tràn dịch màng phổi, viêm màng tim hay viêm cầu thận.

Thể tổn thương nhiều khớp 
Thể bệnh này khởi phát từ từ; có 3 dạng như sau:
Có yếu tố thấp (1/4 các trường hợp): Có thể xem đây là bệnh viêm khớp dạng thấp ở trẻ em. Viêm khớp đối xứng, gây hủy khớp, tổn thương đặc hiệu ở hai bàn tay và bàn chân, nhưng cũng có thể gặp ở tất cả các khớp ngoại biên khác. Nếu khớp thái dương hàm bị tổn thương ở mức độ nặng thì tình trạng dinh dưỡng của trẻ sẽ bị ảnh hưởng đáng kể.

Có kháng thể kháng nhân (ANA): Thường gặp ở trẻ nhỏ hơn 5 tuổi. Triệu chứng viêm đa khớp xảy ra sớm ngay từ đầu hay viêm ít khớp lan tỏa thứ phát.

Không có dấu chứng miễn dịch: Trong dạng bệnh này, các khớp bị sưng không đáng kể nhưng lại bị cứng khớp rất nhanh.

Thể tổn thương ít khớp 
Dạng khởi phát sớm: 90% thường gặp ở bé gái. Có 1-4 khớp bị tổn thương không đối xứng, thường gặp nhất là khớp gối, mắt cá, cổ tay. Bệnh có thể gây biến chứng cườm mắt, tăng nhãn áp, tổn thương kết mạc có thể đưa đến mù.

Dạng khởi phát muộn: Thường gặp trong các thể bệnh viêm cột sống ở trẻ em, 85% xảy ra ở các bé trai 10-12 tuổi. Viêm khớp ngoại biên không đối xứng và thường là ở chi trên.

Trên lâm sàng, nếu dấu hiệu sưng khớp khó xác định thì có thể dùng siêu âm để chẩn đoán. Khi có tràn dịch, cần chọc dò để làm xét nghiệm dịch khớp trong trường hợp nghi ngờ có nhiễm trùng khớp. X-quang thường không có giá trị nhiều trong giai đoạn sớm vì chưa thấy các tổn thương như hẹp khe khớp, hủy khớp hay khuyết ổ khớp. Chụp cộng hưởng từ (IRM) có thể được chỉ định đối với các trường hợp tràn dịch khớp khó xác định như khớp háng.

Về mặt xét nghiệm miễn dịch, chỉ cần tìm sự hiện diện của yếu tố thấp và kháng thể kháng nhân là đủ để xác định thể bệnh sau khi đã khám lâm sàng.

Tuy nhiên, cũng cần phải loại trừ một số bệnh lý khác có thể gây ra một bệnh cảnh tương tự như: thấp khớp cấp, nhiễm trùng khớp, bướu, tổn thương khớp trong bệnh lý về máu…

Viêm khớp mãn tính ở trẻ em được điều trị bằng các thuốc giảm đau, kháng viêm, corticoide..., vật lý trị liệu. Tất cả phải có sự hướng dẫn và kiểm tra chặt chẽ của bác sĩ.


Theo Sức Khỏe & Đời Sống