Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Gia Đình. Hiển thị tất cả bài đăng

Tìm hiểu có nên sinh con sau tuổi mãn kinh?

Các tiến bộ khoa học đã giúp nhiều phụ nữ sinh con khi đã ở tuổi làm bà. Nhiều người vui mừng cho đây là một tiến bộ khoa học đem lại cơ hội cho nhiều phụ nữ. Nhưng cũng không ít ý kiến cho nó là trái quy luật tự nhiên và dễ gây nguy hiểm. 



Một phụ nữ Italy đã sinh con ở tuổi 56. Một phụ nữ Anh 55 tuổi vừa cho ra đời hai đứa trẻ song sinh. Một phụ nữ Bỉ ngoài 60 tuổi cũng đang mang thai. Nhiều quý bà ngoài 50 tuổi đã mãn kinh từ lâu ở một số nước phương Tây cũng được làm mẹ... Những thông tin trên làm nhiều người sửng sốt. Y học ngày nay có thể làm được những chuyện kỳ lạ như thế sao?

Đây là chuyện có thật chứ không phải khoa học viễn tưởng. Người ta lấy noãn của một phụ nữ còn trẻ có khả năng sinh đẻ tốt cho thụ tinh với tinh trùng của người chồng rồi cấy bào thai vào tử cung người phụ nữ đã hết kinh sau khi đã tiêm hoóc môn trong vài tháng để kích thích sự mang thai. Khi thai đã đậu trong tử cung, nhau thai sẽ tạo ra hoóc môn cần thiết và việc mang thai sẽ thành công.
Điều cần phải bàn là liệu người phụ nữ có nên sinh con sau tuổi mãn kinh không? Đây là một tiến bộ khoa học đáng mừng hay là sự nhạo báng quy luật tự nhiên? Thành công độc đáo này đã gây ra nhiều cuộc tranh luận sôi nổi không những trong giới y học phương Tây, mà cả trong nhiều nhà tâm lý học, xã hội học, các chính khách... Có những ý kiến hoan nghênh, nhưng cũng không ít người phản đối, gay gắt nữa là khác.

Những người tán thành cho rằng đây là một tiến bộ khoa học đáng tự hào, nó giúp những phụ nữ già vẫn có thể làm mẹ. Họ lý luận rằng, với những tiến bộ khoa học hiện nay, người ta có thể giúp người phụ nữ lấy lại được tuổi xuân và thân hình đẹp đẽ thời con gái thì đương nhiên phải làm trẻ lại được các chức năng sinh lý của chị em, kể cả việc chửa đẻ.

Những người phản đối cho rằng đây là sự nhạo báng, chống lại quy luật tự nhiên. Đã ở lứa tuổi ngoài 50-60, liệu người phụ nữ có đủ sức khỏe vượt qua thời kỳ thai nghén không? Họ cho rằng việc chửa đẻ dù thành công đi nữa cũng không gì khổ bằng một đôi vợ chồng già, tóc bạc, răng long, mắt không còn tinh tường nữa, trí nhớ và sức khỏe đã suy giảm nhiều mà vẫn phải vất vả chăm sóc, nuôi dưỡng một đứa bé. Giữa đứa trẻ và mẹ của nó cách nhau tới mấy thế hệ chứ đâu chỉ một. Chắc chắn họ không thể nhìn thấy nó lớn khôn. Tương lai của những đứa trẻ này sẽ ra sao nếu bố mẹ chúng mất đi khi chúng chưa kịp lớn?

Nhiều nhà khoa học cho đây là một chuyện điên rồ. Họ lấy dẫn chứng là bà Christine, 54 tuổi, giám đốc một công ty bất động sản ở Pháp. Bà có một con gái 20 tuổi và đã sống ly thân với người chồng cũ từ nhiều năm, hiện bà sống với một người đàn ông khác trẻ hơn mình nhiều. Họ muốn có một đứa con chung trong hoàn cảnh người vợ già đã mãn kinh. Những quảng cáo rùm beng của nhiều thày thuốc rằng họ có thể giúp phụ nữ mãn kinh chửa đẻ đã đem lại cho cặp vợ chồng này nhiều hy vọng và họ đã tìm đến một bác sĩ phụ sản nhờ giúp đỡ.

Thực tế ở Pháp trong những năm qua cũng có hàng chục phụ nữ vô sinh có con theo cách nói trên, nhưng đều là những người trẻ không có buồng trứng bẩm sinh hoặc bị mãn kinh sớm, nghĩa là vẫn đủ sức khỏe và khả năng mang thai. Bà Christine đâu hiểu điều đó và thày thuốc cũng không nói rõ cho bà biết những nguy cơ có thể xảy ra cho một người già vẫn muốn sinh con.

Khoa học đã giúp bà đạt ước muốn có thai bằng cách lấy noãn của một phụ nữ khác cho thụ tinh với người chồng rồi cấy vào tử cung của bà. Christine đã mang thai ở tuổi ngoài 54, sau mấy năm mãn kinh. Trong 6 tháng đầu, tình hình tiến triển tốt, nhưng đến tháng thứ 7, bà bị sản giật. Tuy được mổ tử cung kịp thời nhưng những cơn sản giật và tăng huyết áp đã làm bà bị tai biến mạch máu não. Một lần nữa Christine đã được cứu sống, nhưng bị liệt. Bà phải bán đi công ty bất động sản và trở thành phế nhân, phải sống trên ghế đẩy.

Nhắc lại chuyện này, bà Christine nói: “Các bác sĩ không hề cho tôi biết nguy cơ có thể xảy ra, nếu nói thì tôi đã không dám chửa đẻ nữa!”.

BS Hương Liên, Sức Khỏe & Đời Sống

Dùng kháng sinh nặng làm tăng nguy cơ bị u lymphô

Sử dụng thuốc kháng sinh hơn 10 lần trong thời niên thiếu làm gia tăng nguy cơ bị u lymphô không phải dạng Hodgkin (NHL), một loại ung thư ảnh hưởng đến hệ bạch huyết của cơ thể. 



Bác sĩ Ellen T.Chang thuộc Trung tâm Ung thư Bắc California ở Fremont và đồng nghiệp cũng nhận thấy nguy cơ mắc NHL nơi những người dùng thuốc mạnh chống viêm không có steroid (NSAIDs), như ibuprofen (Motrin, Advil), nhưng không có sự liên quan giữa bệnh này với bất cứ các lọai thuốc khác.
Các nhà khoa học đã xem xét dữ liệu lấy từ cuộc nghiên cứu của Khoa nghiên cứu nguyên nhân u lymphô Bắc Âu, một nghiên cứu liên quan đến 3.055 bệnh nhân bị NHL so với 3.187 người khỏe mạnh. Mối liên quan “ấn tượng” giữa việc sử dụng kháng sinh và NHL được tìm thấy nơi tất cả các lọai bệnh phụ của chứng này. Ngòai ra,việc sử dụng NSAID nhiều cũng làm gia tăng nguy cơ mắc NHL.
Các nhà khoa học kết luận: ”Các dữ liệu sinh học cho thấy rõ giả thiết việc sử dụng kháng sinh là một chỉ dấu viêm nhiễm và sưng viêm sau đó, điều có thể làm tăng nguy cơ mắc NHL. Và việc dùng nhiều NSAID là một chỉ dấu sưng viêm mạn tính”.

K.NHẬT (Theo News)
Theo Tuổi Trẻ

Phương thuốc quý cho phụ nữ sau khi sinh

Sau khi sinh, phụ nữ thường yếu sức, mệt mỏi... Theo kinh nghiệm dân gian, có nhiều phương thuốc đơn giản, hữu hiệu và không gây tác dụng phụ để khắc phục tình trạng này 



Thuốc làm phục hồi nhanh sức khỏe 
Ở miền núi, có các cây bổ béo, khế rừng, củ gió đất.
Rễ bổ béo: 
Thu hái quanh năm, tốt nhất vào mùa thu, rửa sạch, cắt bỏ gốc, đầu rễ và rễ con, thái mỏng, ngâm nước vo gạo trong 24 giờ, rửa sạch nhiều lần rồi phơi hoặc sấy khô.
Sau đó, tẩm rễ với nước gừng với tỷ lệ 50g gừng tươi trong 100ml nước, đun nóng 10-15 phút, lấy ra, phơi khô, rồi lại ngâm nước gừng cho đến khi hết nước tẩm.
Để nguội, lại phơi nắng hoặc sấy cho thật khô, sao vàng. Ngày dùng 10-20g dưới dạng nước sắc (kinh nghiệm của dân tộc Mường).
Thân và cành khế rừng: 
Thu hái quanh năm, tuốt bỏ lá, rửa sạch (đối với thân và cành to chỉ dùng vỏ, còn cành nhỏ thì để nguyên), thái mỏng, phơi khô, sao vàng. Khi dùng lấy 20-40g dược liệu giã nhỏ, hãm với nước sôi, uống đều hằng ngày thay nước chè trong vài tuần.
Thuốc có mùi thơm nhẹ, rất dễ chịu (kinh nghiệm của các dân tộc Tày và Dao).
Củ gió đất: 
Đào về, tước bỏ những phiến của lá bắc và bao hoa, rửa sạch, thái mỏng, phơi khô, sao qua rồi ngâm rượu với tỷ lệ 1/5 trong một tháng hoặc càng lâu càng tốt. Rượu có màu đỏ thẫm, thơm, vị hơi chát, đắng.
Ngày uống hai lần, mỗi lần một chén nhỏ trước bữa ăn. Thêm đường cho dễ uống.
Thuốc làm tăng tiết sữa
Dùng độc vị, theo các tài liệu cổ (Nam dược thần hiệu và Bách gia trân tàng):
- Hạt mùi nấu với gạo nếp thành cháo ăn đều hằng ngày.
- Rau đay (150-200g) nấu canh ăn hằng ngày trong tuần đầu tiên sau khi đẻ; các tuần sau, mỗi tuần ăn hai lần với liều 200-250g.
- Quả vả phơi khô hoặc sấy giòn, tán bột, rây mịn. Mỗi ngày uống hai lần, mỗi lần 12g với nước đun sôi để nguội vào lúc đói. Dùng 3-5 ngày.
- Dùng phối hợp, lõi thông thảo (10-20g) bào mỏng thành sợi (y học cổ truyền gọi là ty thông thảo), chân giò lợn (1 cái) hoặc móng giò lợn (2-5 cái), gạo nếp (30-50g).
Chân giò hoặc móng đem chặt nhỏ, nấu thật nhừ rồi cho thông thảo và gạo nếp vào. Tiếp tục nấu trong một giờ đến khi nhừ nhuyễn, thêm gia vị, để nguội, ăn trong ngày. Dùng 3 ngày, nếu cần có thể dùng thêm vài ngày nữa.
Hoặc thông thảo 10g, hạt bông 12g (sao vàng), cám gạo nếp 10g (sao), sắc uống.
Thuốc phòng chống chứng sản hậu
- Nghệ vàng 300g (giã nát), trộn với 3-4 lít nước, ngâm trong vài giờ, thỉnh thoảng khuấy đều, rồi gạn. Lấy 1 kg gạo nếp đã vo kỹ vào nước nghệ, ngâm trong 5-7 ngày đêm (ngày phơi, đêm ngâm). Vớt gạo ra, hong khô, rồi rang khô giòn, tán bột, rây mịn. Ngày uống 3-4 lần, mỗi lần 1-2 thìa cà phê.
- Nga truật (nghệ đen), hương phụ mỗi vị 100g; quả quất non 50g, cắn nước tiểu 5g. Tất cả thái nhỏ, phơi khô, tán bột, rây mịn, rồi luyện với mật làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên.
- Mần tưới, mạch môn mỗi vị 20g; ngải cứu 10g; nhân trần 6g, rẻ quạt, vỏ bưởi đào mỗi vị 4g. Sắc uống ngày một thang. Dùng 10 ngày.
- Sâm đại hành, thanh ngâm mỗi vị 100g, nghệ vàng 200g. Thanh ngâm sắc lấy nước đặc; sâm và nghệ sấy riêng từng thứ, tán bột. Ngày uống 20g sâm và 20g nghệ với nước sắc thanh ngâm.

Theo Khoa học & đời sống
Sưu tầm và sửa lại tiêu đề bởi: TẠP CHÍ SỨC KHỎE MỚI

Cỏ mực - thuốc thanh nhiệt và cầm máu trị thương

Để chữa chứng chảy máu mũi đêm ngày không dứt, Y thư cổ Nam dược thần hiệu khuyên lấy cỏ mực giã nát, đắp vào giữa mỏ ác và trên trán. 



Cỏ mực (rau mực) có tên khoa học là Eclipta alba Hassk, thuộc họ cúc Asteraceae. Gọi là cỏ mực vì khi vò nát có nước chảy ra như mực đen. Người ta còn gọi nó là cây nhọ nồi, dễ gây nhầm lẫn với vị thuốc nhọ nồi lấy từ nồi chảo. Tên chữ Hán là hạn liên thảo (cây có đài quả như sen).
Cỏ mực tính lạnh, vị ngọt chua, không độc, có tác dụng lương huyết (mát huyết), cầm máu, thanh can nhiệt, dưỡng thận âm, làm đen râu tóc. Chủ trị: xuất huyết nội tạng (chảy máu dạ dày, tiêu tiện ra máu, thổ huyết do lao, rong kinh), kiết lỵ, viêm gan mạn, chấn thương sưng tấy lở loét, mẫn ngứa (uống trong, rửa ngoài).
Sách Thần nông bản thảo gọi cỏ mực “là thuốc cầm máu nổi tiếng”. Sách Đường bản thảo viết, người bị chảy máu dữ dội dùng cỏ mực đắp sẽ cầm, bôi nước lên đầu thì tóc sẽ mọc lại nhanh chóng. Điền nam bản thảo cho rằng, rau mực làm chắc răng, đen tóc chữa khỏi 9 loại trĩ. Bản kinh (ra đời cách đây 2000 năm) viết: “Máu chảy không cầm, đắp rau mực cầm ngay”.
Kỵ dùng cỏ mực khi có âm hư không có nhiệt, tỳ vị hư hàn tiêu chảy. Ngày nay, vị thuốc này được dùng nhiều trong điều trị sốt xuất huyết muỗi truyền, ung thư và nhiều bệnh khác.
Viện Dược liệu từng nghiên cứu tác dụng cầm máu và độc tính của cỏ mực và nhận thấy nó có khả năng chống lại tác dụng của dicumarin (thuốc chống đông), cầm máu ở tử cung, tăng trương lực tử cung. Cỏ mực không gây giãn mạch, không hạ huyết áp, nhưng có thể gây sẩy thai.
Một số bài thuốc 
Thổ huyết và chảy máu cam: Dùng cỏ mực cả cành và lá tươi giã lấy nước để uống.
Tiêu ra máu: Cỏ mực nướng trên miếng ngói sạch cho khô, tán bột. Mỗi lần dùng 2 chỉ (8g) với nước cơm (Gia tàng kinh nghiệm phương).
Tiểu ra máu: Cỏ mực, mã đề 2 vị bằng nhau, giã lấy nước ngày uống 3 chén lúc đói (Y học chân truyền). Hoặc nấu cháo cỏ mực (100 g) với 3 lát gừng.
Trĩ ra máu: Một nắm cỏ mực để nguyên rễ, giã nhuyễn, cho vào 1 chén rượu nóng, thành dịch đặc vừa uống trong, vừa đắp bã ngoài (Bảo thọ đường phương).
Chảy máu dạ dày - hành tá tràng: Cỏ mực 50 g, bạch cập 25 g, đại táo 4 quả, cam thảo 15g sắc uống, ngày 1 thang chia làm 2 lần.
Vết đứt chém nhỏ chảy máu: Một nắm cỏ mực sạch nhai hoặc giã nhuyễn đắp lên vết thương.
Chữa râu tóc bạc sớm: Cỏ mực với lượng tùy dùng, rửa sạch, nấu cô đặc thành cao rồi cho nước gừng, mật ong với lượng vừa phải, cô lại lần nữa. Cho vào lọ, khi dùng lấy 1-2 thìa canh hòa nước đun sôi còn ấm hoặc cho ít rượu gạo để uống. Ngày 2 lần, cao này có tác dụng bổ thận, ích tinh huyết.
Hoặc: Cỏ mực 1-2 kg, cho vào nước ép lấy dịch đặc trộn với bột nữ trinh tử đã được chế sẵn như sau: nữ trinh tử 300-1.000 g ngâm rượu 1 ngày, bóc vỏ, rang khô tán bột. Viên hoàn bằng mật ong. Mỗi lần uống 10 g. Ngày uống 3 lần với rượu gạo hâm nóng. Hoàn này bổ can thận, xanh đen râu tóc, khỏi đau lưng gối (Nữ trinh tử không phải trinh nữ tử).
Chữa di mộng tinh (do tâm thận nóng): Cỏ mực sấy khô, tán bột. Uống ngày 8 g với nước cơm, hoặc sắc cỏ mực để uống ngày 30 g.
Rong kinh: Nếu nhẹ, lấy cỏ mực tươi giã vắt lấy nước cốt uống hoặc cỏ mực khô sắc nước uống. Nếu huyết ra nhiều, cần phối hợp thêm trắc bá diệp hoặc cây huyết dụ…
Trẻ tưa lưỡi: Cỏ mực tươi 4 g, lá hẹ tươi 2 g giã nhuyễn, lấy nước cốt hòa mật ong chấm lên lưỡi cách 2 giờ 1 lần.
Cỏ mực chữa sốt xuất huyết
Viện Đông y cùng bệnh viện quận Đống Đa từng dùng cỏ mực chống dịch sốt xuất huyết muỗi truyền vào năm 1969, với 230 bệnh nhân nội trú, kết quả khỏi bệnh 99,6%. Viện Quân y 13, quân khi 5 cũng dùng mấy bài thuốc Nam dạng xiro có thành phần cỏ mực để chữa bệnh này, đem lại hiệu quả cao.
Ngoài việc thanh can nhiệt, dưỡng thận âm, tác dụng cầm máu của cỏ mực đã được nghiên cúu tổng kết qua lâm sàng bệnh sôta xuất huyết và trong phòng thí nghiệm, mở ra cách giải thích cơ chế tác dụng cầm máu. Do vậy, cần bảo lưu vai trò của cỏ mực trong phương pháp chữa sốt xuất huyết vì chảy máu là một trong 2 yếu tố gây tử vong lớn nhất trong bệnh này.
Ngoài ra, theo tài liệu của Trung Quốc, cỏ mực đã được dùng để chữa ung thư các loại (phối hợp với những vị khác) như ung thư dạ dày, tử cung, xương, bạch huyết, họng. Trong đó, để chữa ung thư họng, chỉ dùng mỗi vị cỏ mực 50 g tươi vắt nước uống hàng ngày hoặc sắc nước uống.

Theo Khoa học & đời sống
Sưu tầm và sửa lại tiêu đề bởi: TẠP CHÍ SỨC KHỎE MỚI

Đi nghỉ, du lịch có lợi cho sức khoẻ

Những phụ nữ đi nghỉ thường xuyên sẽ ngủ tốt hơn, hài lòng hơn với cuộc sống gia đình, và vì thế ít bị căng thẳng hay trầm uất hơn. Vấn đề là hầu như các chị em không có nổi thậm chí một kỳ nghỉ trong năm. 



Một cuộc khảo sát trên những phụ nữ đi làm tại Mỹ tìm thấy tỷ lệ các chị em đi nghỉ như sau:
2 lần/năm (23,4 %)
1 lần/năm (34 %)
1 lần trong 2-5 năm (23,2 %)
1 lần trong 6 năm (19,4 %)
"Thật kinh ngạc khi thấy gần 1 trên 5 phụ nữ chỉ đi nghỉ 6 năm một lần", người đứng đầu nghiên cứu Cathy McCarty tại Bệnh viện Marshfield phát biểu.
Tỷ lệ trầm cảm và căng thẳng cao hơn hẳn ở những phụ nữ chỉ đi nghỉ 2 năm một lần, so với những người sẵn sàng vứt bỏ công việc để nghỉ ngơi mỗi năm ít nhất 2 lần.
"Không có gì ngạc nhiên cả. Đi nghỉ giúp chúng ta thoát khỏi những tác nhân gây stress hằng ngày", McCarty nói. "Nó cho phép chúng ta thoát khỏi công sở, nhà cửa và giúp giải toả mọi căng thẳng".
Theo các chuyên gia, nghiên cứu này chứng tỏ các kỳ nghỉ rất có lợi cho sức khoẻ thể chất và tinh thần, và giúp người ta làm việc tốt hơn. Những ông chủ nên hỗ trợ nhân viên được nghỉ ngơi bởi điều đó sẽ mang lại cho họ những nhân viên vui vẻ và sảng khoái.

M.T. (theo Livescience)
Theo VnExpress
Sưu tầm và sửa lại tiêu đề bởi: TẠP CHÍ SỨC KHỎE MỚI